TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 02/2024/DS-ST NGÀY 19/01/2024 VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN BỊ XÂM PHẠM
Ngày 19 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 125/2023/TLST- DS, ngày 23 tháng 6 năm 2023 về việc “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản bị xâm phạm”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXX- ST ngày 04 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: ông Võ Kim S – Sinh năm: 1989
– Có mặt Bị đơn: ông Võ T – Sinh năm: 1977 và bà Trương Thị T1 – Sinh năm: 1980 – Có mặt.
Các đương sự cùng địa chỉ: thôn P, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện ngày 21-6-2023 và tại phiên tòa nguyên đơn ông Võ Kim S trình bày:
Ông S có làm một chuồng nuôi dê trên đất ông bà nội để lại (hiện nay ông Võ Hồng A là chú ruột đang sinh sống trên thửa đất này). Ngày 01-9-2022, cháu Võ T2 – Sinh ngày 27-01-2016 là con ruột ông Võ T, bà Trương Thị T1 (hàng xóm cạnh nhà) qua chơi, trong lúc chơi cháu T đã dùng lửa đốt chuồng dê (chuồng không nuôi dê có bảo quản 55 cuộn rơm). Hậu quả 55 cuộn rơm được bảo quản trong chuồng nuôi dê bị cháy hoàn toàn, chuồng nuôi dê bị cháy hư hỏng nặng. Sau khi cháu T gây thiệt hại, ông Võ T và bà Trương Thị T1 là cha mẹ ruột của cháu T đã thỏa thuận bồi thường 900.000 đồng tiền rơm cho ông S, đối với thiệt hại do chuồng dê bị hư hỏng thì ông T thỏa thuận sẽ sửa chữa lại cho ông S. Nhiều lần ông S yêu cầu ông T phải sửa lại chuồng dê nhưng ông T không thực hiện. Do đó, ông S khởi kiện yêu cầu ông Võ T và bà Trương Thị T1 là cha mẹ ruột của cháu T phải bồi thường thiệt hại do chuồng dê bị hư hỏng cho ông S số tiền là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).
2. Bị đơn ông Võ T và bà Trương Thị T1 thống nhất trình bày:
Cháu Võ T2 – Sinh ngày 27-01-2016 là con của ông T và bà T1. Ngày 11- 09-2022, cháu qua nhà ông A chơi, nghịch lửa làm cháy chuồng nuôi dê (là tài sản của ông S cháu ruột ông A xây dựng). Hậu quả 55 cuộn rơm được ông S bảo quản trong chuồng nuôi dê cháy toàn bộ, chồng nuôi dê thì bị hư hỏng một phần. Sau khi sự việc xảy ra, vợ chồng ông T đã chủ động bồi thường thiệt hại cho ông S 900.000 đồng tiền rơm. Đối với chuồng nuôi dê bị hư hỏng thì có thỏa thuận ông S sửa chữa hết bao nhiêu thì vợ chồng ông T sẽ trả lại, tuy nhiên ông S không thực hiện. Nay ông S khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại 5.000.000 đồng thì vợ chồng ông T, bà T1 không đồng ý, vợ chồng ông T, bà T1 chỉ đồng ý bồi thường cho ông S số tiền 1.500.000 đồng.
3. Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa được tóm tắt như sau:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ tranh chấp, thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành đúng các thủ tục tố tụng, đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Về nội dung vụ án:
Căn cứ khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 92; Điều 147; Điều 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 584; khoản 1 Điều 585; khoản 2 Điều 586; Điều 589 của Bộ luật Dân sự 2015; khoản 1 Điều 3, Điều 4 và khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Kim S. Buộc bị đơn vợ chồng ông Võ T và bà Trương Thị T1 phải liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Võ Kim S số tiền là 5.000.000 đồng. Buộc vợ chồng ông Võ T, bà Trương Thị T1 phải hoàn lại chi phí tố tụng cho ông Võ Kim S và phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản bị xâm phạm” quy định tại khoản 6 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của ông Võ Kim S yêu cầu vợ chồng ông Võ T và bà Trương Thị T1 phải liên đới bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm số tiền là 5.000.000 đồng là có cơ sở chấp nhận bởi những căn cứ sau:
2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, vợ chồng ông Võ T và bà Trương Thị T1 khai nhận: vào trưa ngày 11-9-2022, cháu Võ T2 – Sinh ngày 27-01-2016 là con ruột ông Võ T, bà Trương Thị T1 chơi lửa vô ý làm chuồng nuôi dê của ông Võ Kim S bị cháy. Hậu quả: 55 cuộn rơm được bảo quản trong chuồng dê cháy hoàn toàn, chuồng nuôi dê bị cháy hư hỏng một phần.
Xét sự thừa nhận của vợ chồng ông Võ T phù hợp lới trình bày của ông Võ Kim S và phù hợp với biên bản hòa giải tại chính quyền địa phương nên có đủ cơ sở xác định: cháu Võ T2 là người có lỗi gây ra thiệt hại về tài sản cho ông Võ Kim S. Đây là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 584 của Bộ luật Dân sự 2015;
2.2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
Cháu Võ T2 – Sinh ngày 27-01-2016 tính đến thời điểm gây thiệt hại chưa đủ 07 tuổi. Căn cứ khoản 2 Điều 586 của Bộ luật Dân sự 2015 thì cha mẹ cháu T là ông Võ T và bà Trương Thị T1 phải có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại. Do đó, ông Võ Kim S khởi kiện yêu cầu ông Võ T và bà Trương Thị T1 phải bồi thường thiệt hại là thực hiện đúng quy định của pháp luật.
2.3. Xác định thiệt hại thực tế:
Các đương sự không thỏa thuận được mức bồi thường thiệt hại, nguyên đơn có yêu cầu Tòa án thành lập Hội đồng định giá tài sản để xác định thiệt hại thực tế. Tại biên bản định giá tài sản của Hội đồng định giá ngày 27/12/2023 đã xác định thiệt hại do chuồng dê bị hư hỏng là: 5.152.014 đồng (năm triệu một trăm năm mươi hai nghìn không trăm mười bốn đồng). Chuồng dê chưa sử dụng nên không có phát sinh lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, các thiệt hại khác không có. Như vậy, ông S yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 5.000.000 đồng là phù hợp với thiệt hại thực tế xảy ra và phù hợp với quy định tại Điều 589 của Bộ luật Dân sự 2015.
[3]. Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản là 2.000.000 đồng, nguyên đơn đã nộp đủ. Căn cứ Điều 157, Điều 165 của Bộ luật Tố tụng Dân sự buộc bị đơn vợ chồng ông Võ T và bà Trương Thị T1 phải có nghĩa vụ liên đới hoàn trả lại cho ông Võ Kim S.
[4]. Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự bị đơn phải liên đới chịu án phí sơ thẩm không có giá ngạch số tiền 300.000 đồng.
[5]. Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa về giải quyết nội dung vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng:
- Điều 5, khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 157, Điều 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 288; Điều 584; Điều 585; Điều 586; Điều Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015 .
Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Kim S đối với bị đơn vợ chồng ông Võ T và bà Trương Thị T1.
Buộc vợ chồng ông Võ T và bà Trương Thị T1 phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản do cháu Võ T2 là con ruột của ông Võ T và bà Trương Thị T1 gây thiệt hại về tài sản cho ông Võ Kim S số tiền bồi thường là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).
Về chi phí tố tụng: Buộc vợ chồng ông Võ T và bà Trương Thị T1 phải liên đới hoàn trả chi phí tố tụng cho ông Võ Kim S số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng);
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
* Về án phí sơ thẩm:
Ông Võ Kim S không phải chịu án phí sơ thẩm.
Buộc vợ chồng ông Võ T và bà Trương Thị T1 phải liên đới chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
* Về quyền kháng cáo: các đương sự có mặt tại phiên tòa, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/01/2043).
Bản án 02/2024/DS-ST về yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
Số hiệu: | 02/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về