Bản án 06/2024/DS-ST về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 06/2024/DS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM

Ngày 16 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 346/2023/TLST-DS ngày 23 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 230/2023/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lâm Ngọc R, sinh năm: 1967 (có mặt) Đăng ký thường trú: Khóm M, phường S, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Chỗ ở hiện nay: Ấp 14, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau

- Bị đơn: Ông Võ Quốc L, sinh năm 1964 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp 8, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn ông Lâm Ngọc R trình bày:

Vào ngày 12 tháng 08 năm 2023 ông đang nhậu ở nhà ông tại ấp 14, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau và ông Võ Quốc L có nhậu chung.Trong lúc say ông và ông Võ Quốc L có lời qua tiếng lại nên dẫn đến xô xát. Ông Võ Quốc L dùng tay đánh vào đầu vào ngực ông nhiều cái làm cho ông bị tức ngực khó thở. Ngày 13 tháng 08 năm 2023 ông đi khám tại Trung tâm y tế huyện U thì các bác sĩ chuẩn đoán ông bị đa chấn thương phần mềm do bị đánh. Ông phải nhập viện và điều trị từ ngày 13 tháng 08 năm 2023 đến ngày 17 tháng 08 năm 2023 là 06 ngày. Ông có đơn tố giác tới Công an nhân dân huyện U, Công an huyện U tiếp tục nhận tin báo và điều tra. Đến ngày 22 tháng 10 năm 2023 Công an huyện U ra thông báo không khởi tố vụ án hình sự số 45/TB -ĐTTH đối với ông Võ Quốc L vì không cấu thành tội phạm. Ông đồng ý với quyết định không khởi vụ án hình sự của Công an huyện U đối với ông Võ Quốc L. Ông Võ Quốc L đã trực tiếp xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của ông. Do đó ông yêu ông Võ Quốc L phải có trách nhiệm bồi thường tiền thuốc và các chi phí điều trị khác cho ông bao gồm: Tiền thuốc và tiền chụp XQ là 1.805.633 đồng; tiền xe K – U đi và về 200.000 đồng; tiền đi giám định U – Cà Mau đi và về 300.000 đồng; tiền ăn của người bệnh có hóa đơn kèm theo là 1.533.000 đồng; tiền ăn người nuôi bệnh là 06 ngày là 06 ngày x 150.000đ/ngày/người x = 900.000 đồng; tiền công lao động người bệnh và người nuôi bệnh trong 06 ngày 06 ngày x 200.000đ/ ngày/người x 2 người = 2.400.000 đồng, tổng cộng các khoản tiền là 7.138.633 đồng. Ông yêu cầu Tòa án nhân dân huyện U xem xét giải quyết buộc ông Võ Quốc L phải trách nhiệm bồi thường thường cho ông số tiền là 7.138.633 đồng.

- Tại phiên tòa bị đơn ông Võ Quốc L trình bày:

Sự việc đánh nhau giữa ông và ông R là do hai bên có mâu thuẫn từ trước đó, ông đã nhịn nhiều lần nhưng khi nhậu chung giữa ông và ông R cũng có lời qua tiếng lại, ông R cũng có đánh ông nhiều cái, Như vậy, ông đánh ông R và ông R cũng có đánh ông xem như là huề nên ông không có sai nên ông R yêu cầu ông bồi thường ông không đồng ý vì ông cũng bị ông R đánh. Việc ông bị xử phạt hành chính thì ông đã nhận quyết định và đóng phạt đầy đủ ông sai là sai với nhà nước không sai với ông R.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện U phát biểu:

Về thủ tục tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 584, 585, 590 của Bộ luật dân sự chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông R. Buộc ông L phải bồi thường thiệt hại cho ông R số tiền 3.981.927 đồng; về án phí: Áp dụng Điều 12, 26 Ngh Quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thương vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Các đương sự được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng, quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự được xác định tranh chấp dân sự về việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện U, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 36, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:

[2.1] Căn cứ vào Giấy ra viện và Giấy chứng nhận thương tích của Trung tâm y tế huyện U, tỉnh Cà Mau đã ghi nhận ông R bị đa chấn thương phần mềm do bị đánh. Tình trạng thương tích lúc vào viện: Xay xát da vùng trán kích thước 05cm x 0,5cm; Vùng cung mài (T) kích thước 03cm x 01cm; Sưng nề vùng vai (P) kích thước 03 cm x 02cm. Nên sau ngày xuất viện, ông R có đơn yêu cầu khởi tố hình sự đối với ông L do đã thực hiện hành vi đánh ông R gây thương tích. Trên sở sở này, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện U đã ra quyết định trưng cầu giám định tổn hại sức khỏe của ông R do thương tích gây ra. Ngày 21/9/2023, Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Cà Mau đã ra Bản kết luận giám định pháp y về thương tích đã kết luận: 01 vết sẹo vùng trán phải kích thước 3,5cm x 0,1cm, tỷ lệ 03%; Vùng cung mài trái không còn dấu vết thương tích, không sếp tỷ lệ %; vùng vai phải không còn dấu vết thương tích, không sếp tỷ lệ %; Lung lay răng R4, không sếp tỷ lệ %. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích tại thời điểm giám định là 03%. Điều này đã chứng minh được ông R có bị đánh gây thương tích.

[2.2] Trên cơ sở Bản kết luận giám định pháp y về thương tích đã kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích tại thời điểm giám định là 03%, đối với ông R ông L cũng có hành vi dùng tay đánh vào mặt ông ông R nhiều cái gây thương tích với tỷ lệ 03%. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện U đã không có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với ông L. Do đó, Trưởng công an huyện U đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 119/-XPHC ngày 23/10/2023, xử phạt ông L 6.500.000đ do đã thực hiện hành vi xâm hại sức khỏe của người khác (gọi tắt là Quyết định số: 119/-XPHC). Ngày 26/10/2023, Công an huyện U đã tống đạt Quyết định số: 119/-XPHC cho ông L và tại phiên tòa ông L cũng thừa nhận đã nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính ông không có làm đơn khiếu nại quyết định và đã thực hiện việc nộp phạt theo quy định nên đã có căn cứ để khẳng định quyết định xử phạt nói trên xử phạt là đúng và ông L cũng đã nộp phạt theo quy định. Điều này phù hợp với việc ông L đã thừa nhận vào ngày 12/8/2023, ông có trực tiếp cự cãi với ông R. Trong lúc cự cãi ông với ông R, ông có dùng tay đánh ông R nhiều cái. Mặt khác, theo điểm d mục 5 Phần I Nghị quyết số: 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quy định về chứng minh trong vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nhưng ông L không có bất kỳ chứng cứ gì để chứng minh là ông không có lỗi.

[2.3] Xét yêu cầu bồi thường tiền thuốc và dịch vụ y tế.

Từ những căn cứ và phân tích ở trên đã đủ cơ sở khẳng định ông L dùng tay đánh ông R gây thương tích nên ông R phải đi điều trị thương tích tại Trung tâm y tế. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà ông R giao nộp cho Tòa án, ông R yêu cầu tiền thuốc và sử dụng các dịch vụ y tế, chụp Xquang cho điều trị thương tích là 1.805.633 đồng. Xét thấy, tại hóa đơn bán hàng ngày 17 tháng 8 năm 2023 thể hiện số tiền thuốc và dịch vụ y tế của ông R đã được bảo hiểm y tế chi trả 1.023.706 đồng nên tiền thuốc và sử dụng các dịch vụ y tế, chụp Xquang cần được điều chỉnh lại cho phù hợp và số tiền cần phải buộc ông L bồi thường cho ông R là 781.927 đồng.

[2.4] Xét yêu cầu bồi thường tiền ăn:

Số tiền ăn uống của ông R yêu cầu trong thời gian điều trị là 1.533.000 đồng.

Xét đây là Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 02 nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông R, tuy nhiên ông R yêu cầu số tiền 1.533.000 đồng là cao so với quy định vì theo quy định của Nghị quyết 02/2022 ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (gọi tắt là Nghị quyết 02) thì chi phí bồi dưỡng sức khỏe được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh, chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án nên số tiền cần điều chỉnh như sau 140.000 đồng/ngày x 05 ngày nằm viện điều trị (từ ngày 13/8/2023 đến ngày 17/8/2023) bằng 700.000 đồng.

Số tiền ăn uống của người nuôi bệnh ông R yêu cầu 06 ngày bằng 900.000 đồng. Xét thấy tại Nghị quyết 02 không quy định về bồi thường tiền ăn cho người nuôi nên yêu cầu của ông R về việc bồi thường tiền ăn của người nuôi bệnh không có cơ sở chấp nhận.

[2.5] Xét yêu cầu bồi thường thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị:

Ông R yêu cầu ông L bồi thường thu nhập thực tế bị mất 06 ngày mỗi ngày 200.000 đồng với số tiền là 1.200.000 đồng. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã thu thập được thì ngày 13/8/2023 ông R điều trị thương tích tại Trung tâm y tế đến ngày 17/8/2023 ông R xuất viện, vậy số ngày điều trị thương tích tại bệnh viện là 05 ngày nên cần điều chỉnh, mặt khác số tiền ông R yêu cầu mỗi ngày 200.000 đồng là chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 02/2022 ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vì Nghị quyết quy định “…Nếu không xác định được thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương thì thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút được bồi thường là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị thiệt hại cư trú cho 01 ngày bị thiệt hại. Ngày lương tối thiểu vùng được xác định là 01 tháng lương tối thiểu vùng do Nhà nước quy định chia cho 26 ngày” nên số tiền bồi thường thu nhập thực tế bị mất của ông R được tính như sau 140.000đồng/ngày x 05 ngày = 700.000 đồng.

Như đã phân tích nêu trên thì tiền mất thu nhập của người nuôi bệnh ông R buộc ông L phải bồi thường là 700.000 đồng.

[2.6] Xét yêu cầu tiền xe đi lại:

Ông R yêu cầu tiền xe từ nhà đến bệnh viện đi và về với số tiền 200.000 đồng và tiền xe đi về khi tiến hành giám định từ U – Cà Mau là 300.000 đồng là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tổng số tiền xe đi lại buộc ông L bồi thường cho ông R là 500.000 đồng.

Như đã phân tích ở trên, yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe của ông R được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận một phần. Buộc ông L phải bồi thường cho ông R tiền thuốc, chi phí khám bệnh 781.927 đồng; tiền ăn của người bệnh là 700.000 đồng; tiền mất thu nhập của người bệnh và người nuôi bệnh 1.400.000 đồng; tiền xe đi lại 500.000 đồng, tổng cộng 3.381.729 đồng.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhận dân huyện U là phù hợp nên được chấp nhận một phần.

[3] Về án phí: Nguyên đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe nên được được miễn nộp tiền tạm ứng án phí cũng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm cho phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn ông Võ Quốc L phải chịu án phí dân sự trên số tiền phải bồi thường là 300.000 đồng. Tuy nhiên ông L là người cao tuổi có đơn xin miễn án phí nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 271; Điều 273 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ các điều 584, 585, 590 và Điều 468 của Bộ luật dân sự; Nghị quyết 02/2022 ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của của ông Lâm Ngọc R về việc yêu cầu ông Võ Quốc L bồi thường thiệt hại.

Buộc ông Võ Quốc L bồi thường cho ông Lâm Ngọc R số tiền 3.381.927 (ba triệu ba trăm tám mươi mốt nghìn chín trăm hai mươi bảy đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành khoản tiền nêu trên thì người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí: Các đương sự được miễn theo quy định.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2024/DS-ST về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

Số hiệu:06/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;