Bản án về tội vô ý làm chết người số 14/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 14/2021/HSST NGÀY 03/03/2021 VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI

Ngày 03 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLST – HS ngày 22 tháng 01 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST ngày 19 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Lý Văn U, sinh ngày 12 tháng 12 năm 1980.

Nơi cư trú: thôn D, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Nguyên.

Nơi làm việc: Công ty TNHH đầu tư xây dựng và thương mại A.

Địa chỉ: Phố 6, phường T, TP B, tỉnh Điện Biên Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý Tiến V, sinh năm 1946 con bà Đào Thị M, sinh năm 1955, có vợ là Dương Kim P, sinh năm 1986 (đã ly hôn), bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2005 con nhỏ sinh năm 2010 đều trú tại thôn D, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Nguyên.

Tiền án; Tiền sự: Không Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 5/12 sau đó lao động tự do tại địa phương. Từ tháng 7/2020 làm công nhân tại Công ty TNHH đầu tư xây dựng và thương mại A. Bị cáo bị áp dụng biện pháp Bảo Lĩnh, người nhận bảo Lĩnh là Công ty TNHH đầu tư xây dựng và thương mại A. (Có mặt) Bị hại: Anh: Bùi Đức C, sinh năm 1975 (đã chết) Nơi cư trú: tổ dân phố N, thị trấn D, huyện T1, tỉnh Thái Bình.

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại.

Ông: Bùi Văn S, sinh năm 1939 (là bố anh Chuyên) Nơi cư trú: tổ dân phố N, thị trấn D, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

1. Cháu: Bùi Nguyễn Minh H, sinh năm 2006 (là con anh C)

2. Cháu: Bùi Huy V, sinh năm 2010 (là con anh C)

Đều cư trú tại: tổ dân phố N, thị trấn D, huyện T1, tỉnh Thái Bình.

3. Công ty TNHH đầu tư xây dựng và thương mại A.

Địa chỉ: Phố 6, phường T, TP B, tỉnh Điện Biên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Văn T2 là Quản đốc công trường, Công ty TNHH đầu tư xây dựng và thương mại A.

* Người đại diện hợp pháp của cháu H, cháu V Chị: Nguyễn Thị D, sinh năm 1981 (là vợ anh C hiện đã ly hôn) Nơi cư trú: thôn L1, xã L2, huyện T1, tỉnh Thái Bình.

(Ông S, chị D vắng mặt có văn bản ủy quyền cho ông Bùi Ngọc P)

* Người đại diện theo ủy quyền:

Ông: Bùi Ngọc P, sinh năm 1966. (Có mặt) Nơi cư trú: thôn tổ dân phố N, thị trấn D, huyện T1, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lý Văn U là công nhân Công ty TNHH Đầu tư xây dựng và thương mại A (Công ty A hiện đang thi công dự án đường vành đai ven biển đi qua địa phận huyện T1). Chiều ngày 09/8/2020, sau khi hết giờ làm việc, U điều khiển xe lu của công ty về bãi tập kết của công trường tại tổ dân phố N, thị trấn D, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, U điều khiển xe lu về điểm tập kết, do đường nhỏ nên U không quay đầu mà điều khiển xe lu đi lùi, mặt khác do đèn xe lu bị hỏng nên khi điều khiển xe lu gần đến điểm tập kết, do không quan sát và không biết anh Bùi Đức C là bảo vệ của công ty đang nằm ngủ trên ghế gấp đặt tại nền đường công trình nên bánh sau bên trái máy lu do U điều khiển đã chèn vào người anh C. Hậu quả anh C tử vong khi đang cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện Thái Thụy.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 182/20/TgT ngày 12/8/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Bình kết luận: Anh Bùi Văn C bị đa chấn thương vùng đầu, mặt do vật tày chèn ép làm vỡ xương sọ vùng đỉnh. Nạn nhân chết do chấn thương sọ não.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 08/CT- VKSTT ngày 21 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo Lý Văn Ước về tội "Vô ý làm chết người" theo quy định tại khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo để cải tạo tại địa phương.

Người đại diện theo ủy quyền (ông P) trình bày: Ông là anh trai của anh C, sau khi sự việc tai nạn xảy ra với em trai ông, bị cáo và gia đình đã tự thỏa thuận về trách nhiệm dân sự, bị cáo bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình số tiền là 110.000.000 đồng, phía Công ty A đã hỗ trợ khắc phục hậu quả cho gia đình số tiền 150.000.000 đồng, ông không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm cho gia đình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng hình phạt tù cho hưởng án treo.

Người đại diện theo ủy quyền Công ty A (ông T3) trình bày: Sau khi bị cáo gây tai nạn cho anh C, Công ty A đã cùng gia đình lo việc mai táng cho anh C và Công ty đã tự nguyện hỗ trợ cho gia đình anh C số tiền là 150.000.000 đồng, đây là số tiền công ty A tự nguyện hỗ trợ cho gia đình anh C và Công ty A cũng không yêu cầu bị cáo U phải trả lại số tiền này cho Công ty A và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng hình phạt tù cho hưởng án treo.

Luận tội của Kiểm sát viên: Vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lý Văn U phạm tội "Vô ý làm chết người". Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 128, Điều 50, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách; ghi nhận sự tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả giữa bị cáo và đại diện của người bị hại, ghi nhận Công ty A tự nguyện hỗ trợ cho gia đình bị hại, đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo xin lỗi gia đình người bị hại, hành vi phạm tội của bị cáo là sai trái, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo để cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dan huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã xác định. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản quản lý vật chứng, sơ đồ hiện trường, bản kết luận giám định pháp y và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Khoảng 19 giờ, ngày 09 tháng 8 năm 2020 tại địa điểm tập kết trong công trường thi công dự án đường vành đai ven biển thuộc địa phận tổ dân phố N, thị trấn D, huyện T1, tỉnh Thái Bình, Lý Văn U điều khiển xe lu, không quay đầu mà đi lùi về điểm tập kết đã chèn vào anh Bùi Đức C đang nằm ngủ trên giường gấp kê ở ven đường công trình. Hậu quả làm anh C chết khi đang cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh huyện T1.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì cẩu thả, không kiểm tra hệ thống đèn chiếu sáng xe lu, điều khiển xe lu đi lùi nên đã xâm phạm đến tính mạng và sức khỏe của người khác, hậu quả làm anh C tử vong. Hành vi đó đã phạm vào tội “Vô ý làm chết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điu 128. Tội vô ý làm chết người

1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm

[5]. Xét về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng và sức khỏe của người khác được pháp luật bảo về. Do đó cần phải quyết định một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho hành vi phạm tội của bị cáo.Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại. Đại diện theo ủy quyền của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần thiết bắt bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội vì bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo được hưởng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Trong qúa trình điều tra bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên cần ghi nhận sự thỏa thuận này. (Bị cáo đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả cho gia đình bị hại số tiền là 110.000.000 đồng ). Công ty A tự nguyện hỗ trợ cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 150.000.000 đồng nên cần ghi nhận.

[7].Về xử lý vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã quản lý của bị hại 01 chiếc màn chụp, 01 giường gấp, 01 mảnh vải màu trắng, 01 chăn nỉ. Tại phiên tòa, ông P là người đại diện theo ủy quyền xác định những vật chứng trên không còn giá trị, không đề nghị nhận lại, xét thấy những vật chứng trên không còn giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Lý Văn U phạm tội "Vô ý làm chết người"

2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 128, Điều 50, điểm b, s khoản 1và khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lý Văn U 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Thái Nguyên giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện H, tỉnh Thái Nguyên thì Uỷ ban nhân dân cấp xã trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện H, tỉnh Thái Nguyên thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hưởng án treo đến cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về trách nhiệm dân sự Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585, Điều 589 và Điều 590 Bộ luật Dân sự:

Ghi nhận sự thỏa thuận về trách nhiệm dân sự giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại, bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 110.000.000 đồng.

Ghi nhận Công ty A tự nguyện hỗ trợ cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 150.000.000 đồng.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc màn chụp, 01 giường gấp, 01 mảnh vải màu trắng, 01 chăn nỉ. (Tất cả vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện Thái Thụy ngày 22/01/2021) 5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Tòa án Bị cáo Lý Văn U phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm .

6. Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo, người đại diện theo ủy quyền có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại diện hợp pháp của bị hại; người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

533
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vô ý làm chết người số 14/2021/HSST

Số hiệu:14/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;