TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ BỒNG, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI
Ngày 17 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2020/TLST - HS ngày 15 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST - HS ngày 20 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 335/2021/QĐXXST - HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:
Đinh Văn B, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1995, tại huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; Nơi ĐKHKTT: Thôn X, xã S, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; Nơi sinh sống: Thôn Xà Riềng, xã Sơn Nham, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Hre; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Văn K và bà Đinh Thị T; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: tốt; bị cáo đang tại ngoại có mặt tại phiên Tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Đinh Văn B có bà Phạm Thị Hà C – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Ngãi “có mặt”.
- Người đại diện hợp pháp cho người bị hại Đinh Văn C (đã chết): Bà Đinh Thị L, sinh năm 1973 (vợ anh Chuông); Nơi cư trú: Thôn Đ, xã S, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Ông Đinh Văn Ú, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Thôn X, xã S, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi (vắng mặt).
+ Ông Đinh Văn N, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Thôn X, xã S, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi (có mặt).
- Người làm chứng:
+ Chị Đinh Thị V, sinh năm 1974 (có mặt);
+ Anh Đinh H, sinh năm 1971 (vắng mặt);
+ Anh Đinh Văn S, sinh năm 1971 (có mặt);
Đều có nơi cư trú: Thôn Đ, xã S, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 08 tháng 4 năm 2020 Đinh Văn Ngôn gọi điện thoại cho Đinh Văn Út để mượn xe ô tô biển số kiểm soát 76C- 04315 do Út làm chủ sở hữu thì được Út đồng ý. Ngôn thuê người và chuẩn bị các công cụ, vật dụng để trồng keo và nhờ Đinh Văn Bôn điều khiển xe ô tô để chở người cùng công cụ, vật dụng đến địa điểm trồng keo thì Bôn đồng ý. Ngày 11/4/2020 Ngôn tiếp tục gọi điện thoại cho Út thông báo sẽ lấy xe và hỏi ý kiến việc Bôn sẽ lái xe. Do trước đây, Bôn từng lái xe cho Út nên Út đồng ý. Sau đó Bôn đến nhà Út lấy xe đến địa điểm tập kết tại thôn Tây, xã Trà Bùi bỏ cây keo con và công cụ dùng để trồng keo và chở 10 người trên thùng xe gồm các ông, bà: Đinh Văn Chuông; Đinh Hố; Đinh Văn Siết; Đinh Thị Vát; Đinh Thị Mết; Đinh Quang Huy; Đinh Thị Lía là vợ của ông Chuông; Đinh Thị Sửa; Đinh Thị Thanh Oa; Đinh Thị Nghèo. Trên đường đi, do đường xấu, dốc, khó đi nên 04 người, gồm: Đinh Thị Lía, Đinh Thị Sửa, Đinh Thị Thanh Oa, Đinh Thị Nghèo xuống đi bộ, 06 người còn lại vẫn ở trên thùng xe.
Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, Đinh Văn Bôn đang điều khiển xe chở 06 người nói trên trên thùng xe, trong đó, ông Đinh Văn Chuông đứng một mình cuối thùng xe, giữ vào dây xích buộc ngang qua thùng xe thì xe bị tuột dốc. Những người trên thùng xe hoảng loạn, cố bám chặt vào thùng xe để không bị ngã. Sau khi trượt khoảng 25m thì xe dừng do bị gác lên tảng đá trên đường. Mọi người kiểm tra thì không thấy ông Chuông trên thùng xe nên xuống xe tìm kiếm và phát hiện ông Chuông nằm trên đường, phía trước xe, bị thương tích. Mọi người đưa ông Chuông đi cấp cứu nhưng ông Chuông chết trên đường đưa đi cấp cứu.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 54/TgT, ngày 15/4/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ngãi kết luận:
“IV. 1. Dấu hiệu chính qua giám định (dấu hiệu hiên quan đến nội dung trưng cầu giám định):
- Vùng trán phải có nhiều vết xây xát da bầm tụ máu.
- Vùng đỉnh - thái dương phải có vết thương bầm tụ máu, xây xát và rách da.
- Gãy xương sườn số 10, 11 bên phải.
- Gãy xương sườn số 9, 10, 11 bên trái.
- Gãy đầu dưới xương cẳng chân phải.
- Mu bàn chân phải, từ mắt cá ngoài đến mặt mu có nhiều vết xây xát da, bầm tụ máu và rách da cơ nham nhở.
- Vùng đỉnh - thái dương phải bầm tụ máu dưới da, xương hộp sọ bị nứt nhiều đường trong diện kích thước (3 x 2)cm, qua vết nứt có máu lỏng bên trong chảy ra.
2. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não gây tụ máu nội sọ”.
Tại Kết luận giám định tư pháp số 1594/SGTVT-KLGĐ, ngày 14/7/2020 của Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi kết luận:
“- Xe ôtô 76C-043.15 nhãn hiệu CUULONG, có số máy YC4E135- 21E02D4700266, số khung RRT09970T71A00297, loại phương tiện ô tô tải (có mui), có 03 chỗ ngồi, trọng tải thiết kế 6.800kg, trọng lượng bản thân 5.210kg, sản xuất tại Việt Nam năm 2008. Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường có hiệu lực đến hết ngày 13/5/2017 (theo dữ liệu của Cục Đăng kiểm Việt Nam).
- Kiểu loại thùng xe và kích thước xe phù hợp theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường. Kết cấu của hệ thống truyền lực không đúng theo hồ sơ phương tiện; hệ thống truyền lực tế là 4x4 (2 cầu), hệ thống truyền lực theo hồ sơ phương tiện là 4x2 (1 cầu). Tại thời điểm giám định, hệ thống truyền lực bị hư hỏng, không vào số được, phương tiện không tự hoạt động được vì vậy không kiểm tra được hiệu quả hoạt động của hệ thống phanh.
- Tình trạng kỹ thuật của hệ thống phanh: có đầy đủ các chi tiết, đúng vị trí lắp, không phát hiện hư hỏng, rò rỉ.
- Tình trạng kỹ thuật của hệ thống lái: có đầy đủ các chi tiết, đúng vị trí lắp, hoạt động bình thường, đảm bảo an toàn kỹ thuật.
- Tình trạng kỹ thuật hệ thống treo: có đầy đủ các chi tiết, đúng vị trí lắp, hoạt động bình thường, đảm bảo an toàn kỹ thuật.
- Tình trạng kỹ thuật hệ thống điện, đèn và còi: còi hoạt động bình thường; cụm đèn chiếu sáng và đèn tín hiệu phía trước bên trái không có, đèn chiếu sáng phía trước bên phải mờ kính tán xạ, không đảm bảo yêu cầu nhận biết; cụm đèn tín hiệu phía sau bên trái bị vỡ do va chạm trong tai nạn; cụm đèn tín hiệu phía sau bên phải bị vỡ kính tán xạ, không đảm bảo yêu cầu nhận biết; phía trước đầu xe tự ý gắn thêm 04 đèn chiếu sáng.
- Gạt nước kính chắn gió phía trước có đầy đủ, hoạt động bình thường; Gương chiếu hậu hai bên xe có đầy đủ, đảm bảo cho phép người lái có thể nhận biết rõ ràng điều kiện giao thông về phía sau và hai bên xe.
- Lốp xe có đầy đủ, đảm bảo yêu cầu về lắp đặt và chiều cao hoa lốp. Kích cỡ lốp thực tế là 11.00R20, không đúng theo hồ sơ phương tiện (9.00-20).
Phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật và điều kiện để lưu hành.” Tại cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Bồng đã truy tố bị cáo Đinh Văn Bôn về tội vô ý làm chết người tại khoản 1 Điều 128 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 128; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên phạt: Bị cáo Đinh Văn B từ 12 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Về trách nhiệm dân sự: Đại diện cho người bị hại không yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự nên HĐXX không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Đinh Văn Út (một) xe ô tô nhãn hiệu CUULONG, loại xe tải có mui, màu sơn: xanh, số máy 1E02D4700266, số khung 970T71A00297, số loại DFA9970T1, biển số kiểm soát 76C-043.15, đã qua sử dụng và 01 (một) giấy Chứng nhận đăng ký xe ô tô số 000448, cấp ngày 29/7/2014, đăng ký xe ô tô biển số kiểm soát 76C-043.15 nên không đề cập tới.
01 (một) Giấy phép lái xe số 510176004053, cấp ngày 28/4/2017 đề nghị HĐXX tuyên trả lại cho Đinh Văn Bôn.
Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Đinh Văn Bôn: Thống nhất với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát; bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội; chưa có tiền án, tiền sự; sau khi thực hiện hành vi, đã thành khẩn khai báo, khắc phục hậu quả; tại phiên tòa đại diện người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 128; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo Đinh Văn Bôn 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Người bào chữa, bị cáo không có lời tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Cơ quan điều tra Công an huyện Trà Bồng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Bồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ phạm tội:
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại; người làm chứng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan Điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 54/TgT, ngày 15/4/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ngãi kết luận nguyên nhân ông Đinh Văn Chuông chết: Do Chấn thương sọ não gây tụ máu nội sọ.
Do đó Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để kết luận Đinh Văn Bôn đã phạm tội “Vô ý làm chết người”; tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 128 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là vô ý. Đinh Văn Bôn đã được cấp giấy phép lái xe hạng C, nhưng không tuân thủ quy tắc, quy định an toàn khi tham gia giao thông, điều khiển xe ô tô tải, biển số kiểm soát 76C- 04315 chở ông Đinh Văn Chuông và các ông, bà: Đinh Hố, Đinh Văn Siết, Đinh Thị Vát, Đinh Thị Mết, Đinh Quang Huy trên thùng xe lưu thông trên đường dân sinh, xe bị tuột dốc làm ông Đinh Văn Chuông rơi xuống đường, hậu quả làm ông Chuông chết, là xâm phạm đến tính mạng của người khác, được pháp luật bảo vệ, gây mất mát đau thương cho gia đình người bị hại làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của Bị cáo gây ra; do đó cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Tại cơ quan điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trong thời hạn truy tố bị cáo tự nguyện bồi thường cho người bị hại; Bị cáo có nhân thân tốt; đã có thời gian tham gia trong quân đội; là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; tại phiên tòa đại diện cho người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên cần xem đây là các tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 để xem xét một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cho bị cáo;
[5] Tình tiết tăng nặng: Không có [6] Đề nghị của Kiểm sát viên và người bào chữa về áp dụng án treo đối với bị cáo là chưa phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội (thuộc tội phạm nghiêm trọng) cũng như việc xem xét các tình tiết giảm nhẹ của Hội đồng xét xử; không đảm bảo tính ren đe giáo dục, nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị cáo đã tự nguyện lo các chi phí mai táng và tiền mặt cho gia đình bị hại tổng số tiền 13.500.000 đồng; tại phiên tòa đại diện hợp pháp cho người bị hại tự nguyện không có yêu cầu gì thêm, nên HĐXX không xét.
[8] Về tang vật vụ án: Trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho người sử dụng hợp pháp là anh Đinh Văn Út xe ô tô nhãn hiệu CUULONG, loại xe tải có mui, màu sơn: xanh, số máy 1E02D4700266, số khung 970T71A00297, số loại DFA9970T1, biển số kiểm soát 76C- 043.15, đã qua sử dụng và 01 (một) giấy Chứng nhận đăng ký xe ô tô số 000448, cấp ngày 29/7/2014, đăng ký xe ô tô biển số kiểm soát 76C- 043.15 là đúng quy định của pháp luật.
Áp dụng điều 47 BLHS; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên trả 01 (một) Giấy phép lái xe số 510176004053, cấp ngày 28/4/2017 cho Đinh Văn Bôn.
[09] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin miễn nộp tiền án phí. Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm d khoản 1 Điều 12, Điều 14 và Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử xét miễn cho bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Đinh Văn Bôn phạm tội “Vô ý làm chết người”.
Áp dụng khoản 1 Điều 128; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Đinh Văn Bôn 09 (chín) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt đi chấp hành án.
2. Về vật chứng trong vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 trả 01 (một) Giấy phép lái xe số 510176004053, cấp ngày 28/4/2017 cho Đinh Văn Bôn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 11 năm 2020 giữa cơ quan CSĐT công an huyện Trà Bồng với Chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Bồng.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo được miễn.
Bị cáo; đại diện hợp pháp cho người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại UBND xã nơi cư trú;
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./
Bản án về tội vô ý làm chết người số 11/2021/HS-ST
Số hiệu: | 11/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trà Bồng - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về