Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 56/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHOÁI CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 56/2024/HS-ST NGÀY 23/07/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 23 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2024/TLST-HS ngày 19/6/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2024/QĐXXST-HS ngày 27/6/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2024/HSST-QĐ ngày 11/7/2024 đối với:

1. Bị cáo: Lê Quang P, sinh năm 1990; Giới tính: Nam; HKTT: Thôn B, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nơi tạm trú: Số D N, tổ C - phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông: Lê Quang L, sinh năm 1963; Con bà: Nguyễn Thị B, sinh năm 1965; Anh chị em ruột: Có 5 người, bị cáo là thứ 2; Vợ: Mai Thị Mỹ H, sinh năm 1992; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2022; Tiền án, tiền sự: Chưa có; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/02/2024 đến ngày 03/3/2024 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện nay bị cáo đang tại ngoại; Theo giấy triệu tập bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Người bị hại: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1984 (đã chết). Nơi cư trú cuối cùng: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh.

3. Đại diện người bị hại: Bà Vũ Thị L1, sinh năm 1978. Nơi thường trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 4.1. Chị Mai Thị Mỹ H, sinh năm 1992; Địa chỉ: Số nhà D, đường N, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

4.2. Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 2003; Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

4.3. Chị Nguyễn Thị H2, sinh năm 2000; Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

5. Người làm chứng: 5.1. Ông Lê Văn H3, sinh năm 1964. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

5.2. Anh Lê Quang N, sinh năm 1995; Địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Tại phiên tòa: Chị H, bà L1, anh H1, chị H2, ông H3 và anh N đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 23/02/2024, Lê Quang P điều khiển ôtô tải biển số 47C-101.xx, trên xe có anh Lê Quang N, sinh năm 1995 ở thôn B, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk ngồi ở ghế phụ, đi trên đường liên xã theo hướng từ xã T, huyện V, tỉnh Hưng Yên về xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Khi đi đến đoạn đường thuộc địa phận thôn Đ, xã Đ, huyện K, P điều khiển và đỗ xe ôtô ở bên trái đường, đầu xe quay hướng xã Đ, đuôi xe hướng xã T, huyện V, sau đó P tắt máy xe ô tô và không có tín hiệu báo cho người tham gia giao thông khác biết rồi P và anh N xuống xe đi ăn cơm. Đến khoảng 21 giờ 18 phút cùng ngày thì cả hai cùng lên cabin xe ôtô để ngủ (xe ôtô vẫn đỗ ở vị trí cũ và tắt máy). Khoảng 05 phút sau, anh Nguyễn Văn K ở thôn Đ, xã Đ, huyện K điều khiển xe môtô biển số 89E1-884.xx đi cùng chiều đâm vào phía sau bên phải xe ôtô tải biển số 47C-101.xx. Hậu quả, anh Nguyễn Văn K bị chết trên đường đi cấp cứu, các phương tiện giao thông bị hư hỏng không đáng kể.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, tạm giữ:

+ 01 chiếc xe ôtô tải biển số 47C-101.xx (kèm theo 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô, 01 giấy chứng nhận kiểm định xe ôtô và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm của chủ xe ôtô);

+ 01 chiếc xe môtô biển số 89E1-884.xx (kèm theo 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô);

+ 01 Giấy phép lái xe, hạng C, số 51013479cc88 mang tên Lê Quang P do Sở giao thông vận tải tỉnh G cấp ngày 12/01/2021 có giá trị đến ngày 12/01/2026.

Hồi 01 giờ 45 phút ngày 24/02/2024, Lê Quang P đã đến Công an huyện K để đầu thú, khai nhận toàn bộ sự việc. Cùng ngày, Cơ quan điều tra quyết định trưng cầu Phòng K2 Công an tỉnh H giám định nguyên nhân chết của anh Nguyễn Văn K.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thu thập, trích xuất file video ghi lại diễn biến xảy ra vụ tai nạn nêu trên từ camera được lắp đặt tại nhà của chị Lưu Thị T ở thôn Đ, xã Đ, huyện K và cho những người liên quan nhận diện người hành động qua video. Ngày 25/4/2024, Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định đối với video này.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định:

Hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông đường bộ là tại đoạn đường liên xã thuộc địa phận thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Đoạn đường thẳng được trải nhựa bằng phẳng và có độ rộng mặt đường là 7,1m. Trên mặt đường có hai chiều đường xe chạy ngược chiều nhau; một chiều hướng đi xã T, huyện V, tỉnh Hưng Yên; một chiều hướng đi đường ĐT382, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Quan sát hiện trường, không phát hiện chướng ngại vật làm ảnh hưởng đến tầm quan sát của người tham gia giao thông. Thống nhất chọn cột điện số “O4A Lộ 371-E28.11” làm điểm mốc và chọn mép đường phải theo hướng xã T, huyện V, tỉnh Hưng Yên về đường ĐT382, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên là mép đường chuẩn. Tiếp giáp với mép đường phải là lề đường phải; tiếp giáp với lề đường phải là nhà ông H4 - bà L2, nhà ông Đ - bà N1 và cột điện số “O4A Lộ 371-E28.11”. Tiếp giáp với mép đường trái là lề đường trái, tiếp giáp với lề đường trái là nhà ông K1 - bà H5, Đ1 thờ Công chúa T.

Soát xét hiện trường vụ tai nạn giao thông, xác định dấu vết đầu tiên xuất hiện tại hiện trường là đám cào xước đứt quãng, kích thước (2,25 x 0,2)m, nằm xiên chéo so với mặt đường, có hình dạng vòng cung, chiều phát triển hướng từ xã T, huyện V về đường ĐT382; được đánh số thứ tự là số (01). Đo từ điểm đầu cạnh bên phải vết số (01), tính theo chiều phát triển của dấu vết, thẳng vào mép đường phải là 4,36m. Đo từ điểm cuối cạnh bên phải vết số (01), tính theo chiều phát triển của dấu vết, thẳng vào mép đường phải là 3,28m. Đo từ điểm đầu cạnh bên phải vết số (01), tính theo chiều phát triển của dấu vết, thẳng vào hướng mép đường phải 1,2m và đo vuông góc thẳng về hướng đường ĐT382 0,7m là tâm đám máu loang. Đám máu loang có kích thước (1,3 x 0,7)m, nằm trên mặt đường và nằm trên mảnh áo mưa màu xanh dương; được đánh số thứ tự là số (02). Đo từ tâm vết số (02) thẳng vào mép đường phải là 3,16m. Đo từ điểm đầu cạnh bên phải vết số (01), tính theo chiều phát triển của dấu vết, thẳng về hướng đi xã T, huyện V 0,8m và đo vuông góc thẳng vào lề đường phải 4,61m là mép lốp bên phải (bên phải người điều khiển) bánh sau xe mô tô biển số 89E1-884.xx. Xe mô tô biển số 89E1-884.xx được đánh số thứ tự là số (03); được dựng bằng chân chống phụ; đầu xe quay về hướng đi xã T, huyện V; sau xe quay về hướng đi đường ĐT382. Đo từ má lốp bên phải (bên phải người điều khiển) bánh sau xe số (03) thẳng ra mép đường phải là 0,25m. Đo từ má lốp bên phải (bên phải người điều khiển) bánh trước xe số (03) thẳng ra mép đường phải là 0,25m. Đo từ điểm đầu cạnh bên phải vết số (01), tính theo chiều phát triển của dấu vết, thẳng vào hướng mép đường phải 04m và đo vuông góc thẳng về hướng đường ĐT382 42,25m là má lốp bên phải (bên phải người điều khiển) trục bánh xe thứ tư (tính từ đầu xe đến cuối xe) xe ô tô biển số 47C-101.xx. Xe ô tô biển số 47C-101.xx được đánh số thứ tự là số (04); đầu xe quay về hướng đi ĐT382; đuôi xe quay về hướng đi xã T, huyện V. Đo từ má lốp bên phải (bên phải người điều khiển) trục bánh xe thứ tư (tính từ đầu xe đến cuối xe) xe ô tô số (04) thẳng vào mép đường phải là 0,5m. Đo từ má lốp bên phải (bên phải người điều khiển) trục bánh xe thứ ba (tính từ đầu xe đến cuối xe) xe ô tô số (04) thẳng vào mép đường phải là 0,5m. Đo từ má lốp bên phải (bên phải người điều khiển) trục bánh xe thứ hai (tính từ đầu xe đến cuối xe) xe ô tô số (04) thẳng vào mép đường phải là 0,6m. Đo từ má lốp bên phải (bên phải người điều khiển) trục bánh xe thứ nhất (tính từ đầu xe đến cuối xe) xe ô tô số (04) thẳng vào mép đường phải là 0,68m. Đo từ điểm đầu cạnh bên phải dấu vết số (01), tính theo chiều phát triển của dấu vết, thẳng về hướng đường ĐT382 11,4m và đo vuông góc thẳng vào lề đường phải 5,42m là điểm chính giữa tiếp giáp gần nhất so với mặt đường của chân cột điện số “04A Lộ 371-E28.11”. Ngoài những dấu vết, phương tiện đã được mô tả nêu trên, không phát hiện dấu vết, phương tiện nào khác.

Kết quả khám nghiệm phương tiện xe ô tô biển số 47C-101.xx xác định:

+ Tại đầu bên phải (bên phải người điều khiển) thanh kim loại ba đờ sốc phía sau xe bị lực tác động làm cong dồn từ sau về trước, kích thước (50 x 20)cm; Điểm thấp nhất của phần kim loại bị cong dồn này cách mặt đường 59cm; Điểm cao nhất của phần kim loại bị cong dồn này cách mặt đường 77,5cm.

+ Cụm đèn hậu, đèn xi nhan phía sau bên phải (bên phải người điều khiển) bị lực tác động làm lệch khỏi vị trí ban đầu, kích thước (40 x 16)cm.

+ Tại mặt lăn lốp bánh xe dự phòng được gắn treo phía sau bên phải (bên phải người điều khiển) có vết sạt cao su, sạch bụi bẩn, kích thước (30 x 17)cm; Chiều phát triển từ sau về trước; Mép dưới của mặt lăn lốp bánh xe dự phòng cách mặt đường là 53cm; Mép trên của mặt lăn lốp bánh xe dự bị phòng cách mặt đường là 75cm; Vết sạt cao su sạch bụi đất này dóng trùng với dòng chữ số “KT 965” trên mép lốp của bánh xe dự phòng.

Kết quả khám nghiệm phương tiện xe môtô biển số 89E1-884.xx xác định:

+ Xe không có gương chiếu hậu bên phải và bên trái.

+ Ốp nhựa bảo vệ cụm đèn xi nhan bên trái (bên trái người điều khiển) phía trước đầu xe bị lực tác động làm vỡ hoàn toàn, trơ bóng điện, kích thước (12 x 05)cm.

+ Giả kim loại để gắn giỏ dựng đồ phía trước đầu xe bị lực tác động làm cong dồn từ trước về sau.

+ Đầu chấn bùn phía trước của bánh trước bị lực tác động làm vỡ nhựa, kích thước (16 x 07)cm.

+ Cánh yếm chắn gió phía trước bên trái (bên trái người điều khiển) bị lực tác động để lại vết sát nhựa, sạch bụi đất, kích thước (16 x 11)cm.

+ Ốp nhựa trang trí bảo vệ ống giảm sóc bên trái (bên trái người điều khiển) phía trước bị lực tác động làm bật rời khỏi vị trí ban đầu, kích thước (10 x 04)cm.

+ Bề mặt ngoài của bàn phanh chân có vết sạt kim loại, sạch bụi đất, kích thước (03 x 0,5)cm.

+ Cần để chân phía trước bên phải (bên phải người điều khiển) bị lực tác động làm cong dồn từ phía trước về sau; Tại đầu cần để chân này có vết sạt cao su, trơ lôi thép, kích thước (4,5 x 02)cm; Tại đầu lôi thép cần để chân này có vết sạt kim loại, kích thước (0,5 x 0,5)cm.

Kết quả khám nghiệm tử thi Nguyễn Văn K xác định: Tử thi được xác định là anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1984 ở thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

+ Đặc điểm trang phục và vật dụng mang theo: Mặc ngoài áo khoác dài tay màu xanh rêu. Mặt trước ống tay áo bên trái, cách gấu áo 30cm, có đám mài xơ vải, kích thước (12 x 05)cm. Mặc ngoài quần vải dài sẫm màu, cạp quần đeo dây lưng màu đen. Thân quần phía trước bên trái, cách gấu quần 06cm, sát mép chỉ ngoài trái, có đám mài sơ vải xen lẫn đám chất bẩn màu nâu, kích thước (16 x 11)cm.

+ Vùng đầu, mặt, cổ: Tử thi hai mắt nhắm, kết mạc hai bên xung huyết, nhãn cầu mất hai bên không vỡ. Hai lỗ mũi có máu. Ống tai ngoài hai bên có máu. Miệng ngậm, lưỡi nằm trong cung răng, khoang miệng có máu. Kiểm tra hệ thống răng không tổn thương. Vùng trán, đỉnh, thái dương trái, sát đường giữa, cách móm cằm 12cm, có đám sây sát rách da, bầm tím, kích thước (17 x 13)cm. Trên đám này tại vùng trán bên trái, cách đường giữa 11cm, cách chân tóc trán 05cm, có đám rách toác da sâu, bờ mép nham nhở, làm lộ tổ chức xương hộp sọ, kích thước (06 x 02)cm. Vùng mắt, má, cằm bên trái, sát đường giữa, cách đường chân tóc trán 07cm, có đám sưng nề bầm tím, kích thước (13 x 11)cm. Kiểm tra thấy mất vững xương gò má bên trái. Vùng cổ không phát hiện thấy tổn thương.

+ Vùng ngực, bụng: Vùng ngực bên phải, sát đường giữa, sát xương đòn phải, có đám sây sát da, bầm tím, kích thước (08 x 06)cm. Kiểm tra xương lồng ngực hai bên vững. Vùng bụng căng chướng.

+ Lưng, chậu hông: Vùng lưng không phát hiện thấy tổn thương. Kiểm tra khung chậu hai bên vững.

+ Hậu môn: Không có phân.

+ Sinh dục: Bộ phận sinh dục ngoài không bị tổn thương.

+ Hai tay: Mu bàn tay trái có vết sây sát da, bầm tím, kích thước (07 x 04)cm. Kiểm tra hệ thống xương hai tay vững.

+ Hai chân: Không phát hiện thấy tổn thương. Kiểm tra hệ thống xương hai chân vững.

- Mổ vùng trán, thái dương, đỉnh bên trái qua vết thương thấy tổ chức dưới da cơ bầm tụ máu, nứt vỡ xương hộp sọ, kích thước (03 x 0,2)cm, máu chảy nhiều qua khe vỡ.

Kết luận giám định tử thi số: 51/KLGĐTT-PC09 ngày 28/02/2024 của Phòng K2 Công an tỉnh H, xác định: Nguyên nhân chết của anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1984 ở thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên là chấn thương sọ não, vỡ xương hộp sọ.

Tại bản Kết luận giám định số: 122/KL-KTHS(KTS) ngày 02/5/2024 của Phòng K2 Công an tỉnh H, kết luận: Không phát hiện thấy dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong file video gửi giám định.

Về vật chứng: Đối với xe ôtô biển số 47C-101.xx, xác định là tài sản hợp pháp của vợ chồng bị cáo Lê Quang P dùng làm phương tiện chở hàng hóa. Ngày 03/3/2024, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe ôtô cùng toàn bộ giấy tờ liên quan cho bị cáo P.

Đối với xe môtô biển số 89E1-884.xx, xác định là tài sản hợp pháp của chủ sở hữu Nguyễn Văn H1, sinh năm 2003 (là con đẻ của anh Nguyễn Văn K). Ngày 03/3/2024, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô cùng toàn bộ giấy tờ liên quan, anh H1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu đề nghị gì.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lê Quang P đã cùng gia đình tự nguyện bồi thường cho gia đình anh Nguyễn Văn K với tổng số tiền là 250.000.000đ, trong đó bao gồm tiền mai táng phí và tiền sửa chữa, thay thế chiếc xe môtô bị hư hỏng trong vụ tai nạn. Đại diện gia đình người bị hại đã nhận tiền, không tiếp tục yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự.

Quá trình điều tra, bị cáo Lê Quang P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu ở trên.

Bản cáo trạng số: 61/CT-VKSKC ngày 19/6/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên truy tố bị cáo Lê Quang P về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai báo diễn biến hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Quang P về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Lê Quang P từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; Giao bị cáo cho UBND xã nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết; Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo không tranh luận gì, khi được nói lời sau cùng bị cáo trình bày đã nhận thức được lỗi lầm của mình, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Khoái Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; Bị cáo, đại diện của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, vắng mặt đại diện cho người bị hại là bà L1; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng. Qua xem xét sự vắng mặt của họ, Tòa án đã triệu tập, tống đạt hợp lệ nên xét thấy việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử và tại phiên tòa. Kiểm sát viên, bị cáo không yêu cầu hoãn phiên tòa. Sau khi thảo luận tại phòng xử án, căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3]. Chứng cứ xác định có tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, được chứng minh bằng các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ như: Biên bản khám nghiệm, sơ đồ hiện trường; Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông; Quyết định trưng cầu giám định; Biên bản khám nghiệm tử thi; Bản kết luận giám định pháp y; Bản ảnh tử thi; Lời khai của bị cáo, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và của người làm chứng trong quá trình điều tra, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Lê Quang P có giấy phép lái xe còn thời hạn và điều khiển loại xe phù hợp giấy phép lái xe đã được cấp. Khoảng hơn 21 giờ ngày 23/02/2024, tại đoạn đường liên xã thuộc địa phận thôn Đ, xã Đ, huyện K, Lê Quang P điều khiển đỗ xe ôtô tải biển số 47C-101.xx ở bên trái đường hướng xã T, huyện V đi xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên sau đó tắt máy xe ôtô và không có tín hiệu báo cho người tham gia giao thông khác nên dẫn đến việc anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1984 ở thôn Đ, xã Đ, huyện K điều khiển xe mô tô biển số 89E1-884.xx đi cùng chiều đã đâm vào phía sau xe ô tô tải biển số 47C-101.xx làm anh K bị chết.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Quang P đã vi phạm điểm a, điểm b khoản 3 Điều 18 Luật giao thông đường bộ. Do đó, hành vi của Lê Quang P đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Khoái Châu đã truy tố Lê Quang P theo tội danh và điều luật áp dụng trong Cáo trạng số: 61/CT-VKSKC ngày 19/6/2024 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo được đào tạo, học tập và được cấp giấy phép lái xe nên bị cáo nhận thức rõ được hành vi của mình khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ cần phải tuân thủ đúng Luật giao thông đường bộ, nhưng bị cáo lại không tuân thủ đúng quy định của Luật giao thông đường bộ, dẫn đến gây tai nạn làm anh K bị chết nên cần xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt cho phù hợp.

[4]. Đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; Bị cáo đã cùng gia đình bồi thường thiệt hại cho gia đình anh K; Bị cáo ra đầu thú và khi tham gia quân ngũ bị cáo được tặng danh hiệu chiến sỹ tiên tiến; Đại diện gia đình anh K có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Anh K cũng có một phần lỗi. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt: Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, với đặc điểm nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, chỉ cần áp dụng khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, để xử phạt bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và giao bị cáo cho UBND xã nơi cư trú giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách cũng đảm bảo việc giáo dục, cải tạo bị cáo nói riêng và phòng chống tội phạm nói chung trong toàn xã hội. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, sau khi phạm tội bị cáo đã tích cực cùng gia đình khắc phục hậu quả, vụ việc có 1 phần lỗi của người bị hại, do vậy sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề lái xe.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại và đại diện gia đình bị hại đã nhận tiền, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

[8]. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại Giấy phép lái xe hạng C, số 51013479cc88 do Sở Giao thông Vận tải tỉnh G cấp ngày 12/01/2021 cho bị cáo.

- Đối với ô tô biển số 47C-101.xx, ngày 03/3/2024 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe ôtô cùng toàn bộ giấy tờ liên quan cho bị cáo P nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Đối với xe môtô biển số 89E1-884.xx, ngày 03/3/2024 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô cùng toàn bộ giấy tờ liên quan cho anh H1 là chủ sở hữu và anh H1 không yêu cầu đề nghị gì nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9]. Về án phí: Bị cáo Lê Quang P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án.

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Quang P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt: Lê Quang P 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao Lê Quang P cho UBND phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp Lê Quang P thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án Hình sự năm 2019.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS. Trả lại bị cáo Giấy phép lái xe hạng C, số 51013479cc88 do Sở Giao thông Vận tải tỉnh G cấp ngày 12/01/2021 (Tòa án trả cho bị cáo sau khi bản án có hiệu lực pháp luật).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Quang P phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người đại diện hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 56/2024/HS-ST

Số hiệu:56/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khoái Châu - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;