TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 45/2024/HS-ST NGÀY 23/09/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 23 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2024/TLST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:
1. Bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Thị C, sinh năm 1979 Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ Nơi cư trú: tổ dân phố C, thị trấn P, huyện Y, tỉnh Bắc Giang Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; Họ và tên cha: Nguyễn Quốc K, sinh năm 1952; Họ và tên mẹ: Lê Thị N, sinh năm 1953; Chồng: Nguyễn Văn C1, sinh năm 1974; Con: Bị cáo có 01 con, sinh năm 2011; chị em ruột: gia đình có 04 anh, chị, em, bị cáo là con thứ 03; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không;
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt tại phiên tòa).
* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị C là ông Nguyễn Văn P - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B. (có mặt)
2. Bị hại: Ông Đỗ Văn B, sinh năm 1969 (đã chết) Nơi cư trú: thôn V, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang 2.1 Đại diện theo pháp luật của bị hại:
- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 (có mặt) - Chị Đỗ Thị N1, sinh năm 1990 (vắng mặt) - Chị Đỗ Thị H, sinh năm 1992 (vắng mặt) - Cháu Đỗ Hoàng T1, sinh năm 2008 (vắng mặt) - Cháu Đỗ Nguyễn D, sinh năm 2016 (vắng mặt) (Chị N1, chị H ủy quyền cho bà T, cháu T1, cháu D do bà T đại diện hợp pháp) Đều cư trú: số nhà B, tổ A, thị trấn Q, huyện M, TP Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 16/3/2024, Nguyễn Thị C, sinh năm 1979 ở tổ dân phố C, thị trấn P, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 do Sở Giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 29/8/2005) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RS biển kiểm soát 98M4-5xxx theo đường Tỉnh lộ 292 hướng thị trấn B đi thị trấn P, huyện Y. Khi đi đến đoạn đường tỉnh lộ 292 thuộc thôn V, xã Đ, huyện Y do không làm chủ tốc độ và không nhường đường cho người đi bộ sang đường nên xe mô tô do C điều khiển đã đâm vào ông Đỗ Văn B, sinh năm 1969 ở thôn V, xã Đ, huyện Y đang đi bộ sang đường. Hậu quả ông B bị chết, xe mô tô bị hư hỏng.
Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 16/3/2024 tại Km15 + 75 Tỉnh lộ 292 thuộc thôn V, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang có 01 hướng đi thị trấn B, 01 hướng đi thị trấn P; đường thẳng, tầm nhìn không bị che khuất; lòng đường rộng 11,5m, được trải nhựa asphalt bằng phẳng; hai bên là mương thoát nước được đậy bằng tấm bê tông rộng 0,95m; giữa đường có kẻ vạch sơn màu vàng đứt đoạn chia mặt đường thành 02 phần bằng nhau, cả hai bên đường đều có kẻ vạch sơn liền màu trắng; khoảng cách từ tâm vạch sơn màu vàng đứt đoạn đến tâm vạch sơn liền màu trắng hai bên bằng nhau là 3,5m. Lấy hướng từ thị trấn B đi thị trấn P được xác định bên phải, bên trái; Điểm mốc được xác định là cột mốc ký hiệu H1/15 (Cột mốc Km15 + 100) làm điểm mốc. Cột mốc đặt ở phía lề đường bên phải và cách mép đường phải là 1,3 m. Trên mặt đường tại vị trí cách điểm mốc 22,7m về phía đi thị trấn B là điểm đầu của hệ thống dấu vết cày xước mặt đường kích thước (16,15x0,13)m, ký hiệu số 1. Đầu vết cày xước cách mép đường phải 2,47m; cuối vết cày xước trùng với đầu để chân bên phải của xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx và cách mép đường phải 1,52m. Hệ thống dấu vết cày xước mặt đường đứt đoạn, không liền mạch. Cách dấu vết cày xước về phía đi thị trấn P 1,7 m là điểm đầu của hệ thống dấu vết cày xước mặt đường đứt đoạn, kích thước (14,12x0,16)m, ký hiệu số 2. Đầu vết này cách mép đường phải 2,2m, cuối vết này trùng với đầu tay phanh bên phải của xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx và cách mép đường phải 2,08m. Xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx, kiểu dáng WAVE RS đổ nghiêng bên phải trên mặt đường, đầu xe mô tô hướng đi thị trấn B, đuôi xe mô tô hướng đi thị trấn P. Trục trước xe mô tô cách mép đường phải 1,3m, trục sau xe mô tô cách mép đường phải 1,72m, trục trước xe mô tô cách dấu vết số 1 là 15,48m. Cách đầu vết số 1 hướng đi thị trấn P 1,46m là tâm của đám chất dịch màu nâu đỏ kích thước (3,5x0,6)m (nghi là máu), ký hiệu số 3. T2 cách mép đường phải 3,09m. Cách điểm đầu vết cày xước số 1 đi thị trấn P 15,5m và ở lề đường bên phải có 01 biển báo cách 300m phía trước giao nhau với đường không ưu tiên ở hai bên phải, trái (biển số W.207e). Cách điểm dấu vết số 1 về phía đi thị trấn P 11m và ở lề đường bên trái có 01 biển báo giao nhau với đường không ưu tiên (đường nhánh), biển số W.207e. Quá trình khám nghiệm hiện trường đã thu giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx, 01 mẫu chất dịch màu đỏ. Ngay sau khi sự việc xảy ra, hồi 18 giờ 28 phút ngày 16/3/2024, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã tiến hành đo nồng độ cồn đối với Nguyễn Thị C, kết quả nồng độ cồn là 0,000mg/L. Cùng ngày 16/3/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã thu giữ được 02 file video camera an ninh của gia đình ông Đỗ Văn P1, sinh năm 1969 và gia đình ông Nguyễn Việt T3, sinh năm 1978, đều ở thôn V, xã Đ, huyện Y có ghi lại nội dung vụ tai nạn giao thông; tiến hành phối hợp với Trung tâm y tế huyện Y thu giữ mẫu máu của Nguyễn Thị C.
Kết quả khám xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx, nhãn hiệu Honda Wave RS: Gương chiếu hậu bên phải bị xoay, tay gương hướng ra phía sau, lưng bát gương có diện mài sát nhựa kích thước (2,7x0,7)cm; ốp cao su chân gương bên phải bị mài sát, rách cao su rời khỏi vị trí chân gương kích thước (2,2x1,3)cm; ốp nhựa phía sau đầu xe và mặt bàn thờ bị gãy chốt rời khỏi vị trí ban đầu; ốp nhựa xi nhan trước bên phải bị mài xát nhựa mặt ngoài phía trước, kích thước (2,7x4,3)cm; đầu tay phanh phía trước bên phải có diện mài sát, khuyết kim loại, kích thước (1,2x1)cm; đầu ngoài tay lái bên phải, phía trên có diện mài sát kim loại kích thước (2,5x0,4)cm; đầu chắn bùn phía trước bên phải có diện mài sát khuyết nhựa, kích thước (3,8x2)cm; mặt ngoài ốp nhựa càng xe bên trái có diện mài sát sơn nhựa, trượt sạch bụi bẩn tạo thành các đường thẳng song song trên diện (5,5x5)cm; phía trước mặt ngoài bên trái phần càng xe có diện mài sát kim loại trượt sạch bụi bẩn tạo thành các đường thẳng song song, kích thước (3,2x7,7)cm; phía trước càng trước bên trái (vị trí gắn trục xe bánh trước) có diện mài sát kim loại, sạch bụi bẩn kích thước (2,2x2,7)cm; mặt ngoài phía trước cánh yếm ngoài bên trái có diện mài sát nhựa trượt sạch bụi bẩn, kích thước trên diện (41x19)cm; cạnh ngoài bên phải bàn đạp chân phanh phía sau có diện mài sát kim loại có dính tạp chất màu trắng, kích thước (1,6x0,2)cm; đầu ngoài để chân trước bên phải có diện mài sát kim loại, cao su để chân bám dính tạp chất màu trắng có kích thước (2,5x2)cm; mặt ngoài phía sau đuôi ống xả có diện mài sát kim loại bám dính tạp chất màu trắng, kích thước (1x0,4)cm. Hệ thống phanh, còi hoạt động bình thường; đèn chiếu sáng bị gãy chốt.
Kết quả khám nghiệm tử thi ông Đỗ Văn B, sinh năm 1969 ở thôn V, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Giang: Hai tai có máu không đông chảy từ trong ra, hai mắt khép kín, hai lỗ mũi và khoang miệng có máu đông và không đông; Trán phải sát đường giữa có vết sây sát da bầm tím kích thước (6x4)cm. Gò má trái có vết sây sát da bầm tím kích thước (5x3)cm; Đỉnh vai trái có vết sây sát da kích thước (3,5x2)cm; Mặt sau ngoài cẳng tay phải có vết thương rách da tróc lớp thượng bì kích thước (10x1,5)cm; Xung quanh mặt sau cẳng tay, khuỷu tay và cánh tay phải có nhiều vết sây sát da, bầm tím trên diện (32x12)cm; Mặt sau khuỷu tay trái có nhiều vết sây sát da bầm tím trên diện (12x5)cm; Mặt mu bàn ngón tay trái có vết bầm tím da kích thước (2x1,5)cm; Mặt trước trong 1/3 dưới cẳng chân trái có vết thương rách da bờ mép gọn kích thước (8x2)cm sâu đến tổ chức cơ. Xung quanh gối trái, cẳng chân và mu bàn chân trái có nhiều vết sây sát da, bầm tím trên diện (48x12)cm; Mặt trước gối phải và cẳng chân phải có nhiều vết rách da, bầm tím trên diện (24x6)cm. Kiểm tra vết thương cẳng chân trái thấy: Dập rách, lóc tổ chức dưới da phía trước vết thương; lộ tổ chức gân cơ, xung quanh bầm tụ máu; qua đó có nhiều máu chảy ra. Chọc hút bằng bơm kim tiêm khoang lồng ngực phải có ít máu không đông lẫn dịch bọt. Kiểm tra thấy gãy cung bên xương sườn 3, 4, 5, 6, 7, 8 bên phải. Quá trình khám nghiệm thu giữ mẫu máu tử thi; 01 quần bò dài tay màu xanh; 01 áo sơ mi dài tay, kẻ ca rô màu xanh, trắng, xám; 04 phim chụp Xquang.
Tại Bản kết luận giám định số 959/KL-KTHS ngày 02/5/2024 của Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận: Dấu vết mài trượt kim loại, trượt xước sơn nhựa, sạch bụi bẩn, in hằn các đường song song, hướng từ trước ra sau ở bên trái đầu trục bánh trước, giảm sóc trước bên trái và cánh yếm bên trái của xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx (ảnh 14, 15, 16 bản ảnh khám nghiệm phương tiện) phù hợp với vết mài trượt vải, bám dính bụi đất và chất màu nâu đỏ ở mặt trước 1/3 dưới ống quần bên trái của nạn nhân Đỗ Văn B mặc khi xảy ra tai nạn (ảnh 3 bản ảnh khám nghiệm tử thi). Vị trí va chạm tại trước điểm đầu hệ thống dấu vết cày xước mặt đường ký hiệu số 1 và số 2, thuộc chiều phương tiện chuyển động bên phải theo hướng thị trấn B đi thị trấn P; Hệ thống dấu vết cày xước mặt đường ký hiệu số 1 và số 2 phù hợp quá trình sau va chạm, xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx đổ nghiêng phải, rê trượt trên mặt đường tạo nên; căn cứ vào chiều hướng dấu vết trên phương tiện và hiện trường, xác định tại thời điểm xảy ra tai nạn xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx chuyển động theo hướng thị trấn B đi thị trấn P; không xác định được tốc độ của xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx tại thời điểm xảy ra tai nạn qua dấu vết cơ học.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 858/KLGĐTT-KTHS ngày 17/4/2024 của Phòng K1 - Công an tỉnh B kết luận: Nguyên nhân chết của Đỗ Văn B do đa chấn thương: Chấn thương sọ não, chấn thương ngực kín. Các tổn thương rách, sây sát da, sưng nề bầm tím được hình thành do tác động của vật tày có hình dạng, diện tiếp xúc và theo chiều hướng khác nhau tạo nên. Trong đó chảy máu qua tai, mũi, miệng; gãy các xương sườn bên phải có tác động của vật tày có lực mạnh, trực tiếp vào vùng đầu và vùng ngực tạo nên.
Tại Bản kết luận giám định ADN số HT145.24/PY-XNDH ngày 29 tháng 3 năm 2024 của V - Cục Q kết luận: Dấu vết trên tăm bông thấm chất dịch màu nâu đỏ thu giữ tại hiện trường được niêm phong trong phong bì ký hiệu "M1" gửi giám định là máu người, có ADN nhiễm sắc thể thường trùng khớp với ADN nhiễm sắc thể thường từ mẫu máu của tử thi Đỗ Văn B, không trùng khớp với ADN nhiễm sắc thể thường từ mẫu máu của Nguyễn Thị C.
Tại Bản kết luận giám định hóa pháp số 783/PY-XNĐH ngày 29 tháng 3 năm 2024 của V - Cục Q kết luận: không tìm thấy Ethanol trong mẫu máu của Đỗ Văn B, Nguyễn Thị C; không tìm thấy các chất ma túy trong mẫu máu của Đỗ Văn B, Nguyễn Thị C; không tìm thấy các độc chất trong mẫu máu của Đỗ Văn B, Nguyễn Thị C.
Tại Bản kết luận giám định số 857/KL-KTHS ngày 17/4/2024 của Phòng KI Công an tỉnh B kết luận: Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong 03 (ba) file được lưu trữ trong đĩa DVD-R gửi giám định; File video có tên "HYQF.4489.MP4", dung lượng 205 MB thời lượng 25 phút 00 giây; File video có tên "Tai nạn giao thông tại Đ ngày 16.3.mp4", dung lượng 675 MB thời lượng 15 phút 02 giây; File video có tên "DSMG7339.MOV", dung lượng 153 MB thời lượng 11 phút 03 giây.
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 18/KF-HDDGTS ngày 17/4/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận: Chi phí sửa chữa thiệt hại hư hỏng của 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS biển kiểm soát 98M4-5xxx, tại thời điểm định giá ngày 16/3/2024 là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).
Tại bản kết luận giám định tổn thương trên cơ thể người sống số 2257/24/KLTTCT-TTPY ngày 09/5/2024 của Trung tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh B kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Thị C là 1% (một phần trăm).
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị C khai nhận: C điều khiển xe mô tô với vận tốc khoảng 40km/h và đi ở phần đường bên phải theo hướng đi của mình, đi cách mép đường bên phải khoảng 02m. Khi quan sát thấy phía trước theo hướng đang đi khoảng 50m có ông Đỗ Văn B đang đi bộ sang đường, C vẫn giữ nguyên vận tốc xe mô tô để đi thẳng theo hướng đang đi. Do chủ quan, không làm chủ tốc độ, không nhường đường cho người đi bộ sang đường khiến xe mô tô do C điều khiển đã đâm vào ông B. Hậu quả C và ông B bị thương, sau đó ông B đã chết.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 95.000.000 đồng (Chín mươi lăm triệu đồng) cho bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 (vợ ông B) là đại diện hợp pháp. Nay bà không yêu cầu gì thêm về dân sự và có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thị C.
Trên cơ sở nội dung vụ án nêu trên của bị cáo, tại bản cáo trạng số 40/CT-VKS-YT ngày 10/9/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang đã truy tố bị cáo ra trước Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang để xét xử về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Đại diện hợp pháp của bị hại là chị Nguyễn Thị T trình bày: Sự việc bị cáo C gây tai nạn giao thông làm ông Đỗ Văn B chết là đúng. Sau khi xảy ra sự việc thì bị cáo và người thân của bị cáo có đến hỏi thăm, bồi thường số tiền 95.000.000 đồng cho gia đình chị. Đến nay chị và các con đều không yêu cầu bồi thường gì thêm và đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt của bị cáo C.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã có hành vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như cáo trạng truy tố và nội dung vụ án đã tóm tắt nêu trên. Bị cáo xin lỗi thân nhân bị hại, đến nay bị cáo rất ăn năn về sự việc đã xảy ra và xin cho bị cáo hưởng án treo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố bị cáo về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ", theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị C từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm 08 tháng đến 03 năm. Giao bị cáo cho UBND thị trấn P giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách nếu cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì có thể phải chấp hành hình phạt tù của bản án; trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới. Về trách nhiệm dân sự: không đặt ra xem xét. Ngoài ra còn đề nghị về xử lý vật chứng và miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an H; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, những người tham gia tố tụng và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, quá trình bị cáo có hành vi phạm tội. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 16/3/2024, Nguyễn Thị C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx đi trên đường Tỉnh lộ 292 hướng thị trấn B đi thị trấn P. Khi đi đến km 15+75 đoạn đường Tỉnh lộ 292 thuộc thôn V, xã Đ, huyện Y tỉnh Bắc Giang do không làm chủ tốc độ và không nhường đường cho người đi bộ sang đường nên xe mô tô do C điều khiển đã đâm vào ông Đỗ Văn B, sinh năm 1969 ở thôn V, xã Đ, huyện Y đi bộ sang đường. Hậu quả, ông B bị chết. Hành vi của C đã vi phạm khoản 4, Điều 11 Luật Giao thông đường bộ và khoản 6, Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ G thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Khi thực hiện hành vi bị cáo đủ tuổi, đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, làm mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang dao động và làm bất bình trong quần chúng nhân dân.
*Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
*Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện khắc phục hậu quả; đại diện của người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; có bố đẻ, mẹ đẻ được tặng Bằng khen và Huy chương kháng chiến nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị C là ông Nguyễn Văn P có ý kiến nhất trí về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ, về việc xem xét lỗi trong vụ án là lỗi hỗn hợp vì vậy mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị là cao nên đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. HĐXX thấy căn cứ tính chất mức độ hành vi của bị cáo thì mức đề nghị của người bào chữa là chưa phù hợp.
Từ những phân tích, đánh giá về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội với lỗi vô ý, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết phải cách ly bị cáo với đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo và thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật cũng đảm bảo răn đe, phòng ngừa tội phạm để cho thấy chính sách nhân đạo, khoan hồng đối với người phạm tội và tạo cơ hội cho bị cáo sửa chữa, cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội nên cần áp dụng Điều 65 BLHS như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 95.000.000 đồng (Chín mươi lăm triệu đồng) cho bà Nguyễn Thị T (vợ ông B) là đại diện hợp pháp. Nay bà T không yêu cầu gì thêm về dân sự và có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thị C.
[5] Về vật chứng:
Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe mô tô BKS 98M4-5xxx; 01 Đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx; 01 Giấy phép lái xe hạng A1 là của Nguyễn Thị C, tại phiên tòa bị cáo đề nghị xin lại nên cần trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 quần bò dài màu xanh mặc ngoài tử thi Đỗ Văn B; 01 áo sơ mi dài tay (áo của ông Đỗ Văn B); 04 (bốn) phim chụp X-quang của Đỗ Văn B. Tại phiên tòa chị T đề nghị tịch thu tiêu hủy nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.
Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Thị C.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị C 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ", nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 08 (tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Thị C cho UBND thị trấn P, huyện Y, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách nếu cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì có thể phải chấp hành hình phạt tù của bản án; trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới. Trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự;
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trả lại cho Nguyễn Thị C 01 xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe mô tô BKS 98M4-5xxx; 01 Đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 98M4-5xxx; 01 Giấy phép lái xe hạng A1.
- Tịch thu tiêu hủy 01 quần bò dài màu xanh; 01 áo sơ mi dài tay; 04 (bốn) phim chụp X-quang.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.
- Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Thị C.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333; Điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 45/2024/HS-ST
Số hiệu: | 45/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thế - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về