Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 41/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 05 tháng 05 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 03 năm 2022 đối với bị cáo:

Chu N, sinh ngày 10 tháng 08 năm 1968; nơi sinh và nơi cư trú: Thôn Đồng , xã Trung, huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/10; dân tộc: Sán dìu; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn Trần (đã chết) và bà Lưu Thị Sinh (đã chết); vợ: Trần Thị Lan, con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2000; tiền án; tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Tại bản án hình sự số 08/HSST ngày 26/4/1990 của Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú (cũ) xử phạt Chu N 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” và 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tổng hợp hình phạt buộc Chu N phải chấp hành chung là 30 tháng tù. Chu N đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/12/1991, đã chấp hành xong án phí trước ngày 09/4/2021. (đã được xóa).

- Tại bản án hình sự số 144/HSPT ngày 15/12/1993 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phú (cũ), xử phạt Chu N 18 tháng tù về tội về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Chu N đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/12/1994, đã chấp án phí xong trước ngày 09/4/2021. (đã được xóa).

- Tại bản án hình sự số 02/HSST ngày 24/02/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, xử phạt Chu N 30 tháng tù về tội về tội “Trộm cắp tài sản”. Chu N đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/12/1998, đã chấp án phí xong trước ngày 09/4/2021. (đã được xóa).

- Tại bản án hình sự số 10/HSPT ngày 16/3/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ, xử phạt Chu N 32 tháng tù về tội về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chu N đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/5/2003. Đã chấp hành xong án phí từ tháng 01/2003. (đã được xóa).

- Tại bản án hình sự số 26/HSST ngày 01/3/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, xử phạt Chu N 07 năm tù về tội về tội “Chứa mại dâm” và 06 năm tù về tội “Môi giới mại dâm”. Tổng hợp hình phạt buộc Chu N phải chấp hành là 13 năm tù. Chu N đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/11/2016. Chấp hành xong án phí, phạt bổ sung ngày 25/9/2013. (đã được xóa).

Hoạt động bản thân: Năm 1987 nhập ngũ vào Quân đội nhân dân Việt Nam, đến năm 1989 xuất ngũ về địa phương.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/6/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.

Bị hại: Chị Lê Thị Hò, sinh năm 1978; nơi cư trú: Thôn Chân , xã Hương , huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.

Đại diện theo pháp luật của bị hại: Anh Phan Văn Tỉn, sinh năm 1966; nơi cư trú: Thôn Chân , xã Hương , huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc,(chồng chị Hòa), “vắng mặt”.

Đại diện theo ủy quyền của anh Phan Văn Tỉn: Ông Phan Mạnh Cườn, sinh năm 1965; nơi cư trú: Thôn Chân , xã Hương , huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Lê Thị Ng, sinh năm 1966; nơi cư trú: Thôn Ngũ , xã Thiện, huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.

Bà Trần Thị Lan, sinh năm 1972; nơi cư trú: Thôn Đồng, xã Trung, huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.

Người làm chứng:

Ông Vũ Xuân Khuê, “vắng mặt”.

Ông Thái Văn Phương, “vắng mặt”.

Anh Nguyễn Văn Phúc, “vắng mặt”.

Anh Nguyễn Tiến Vĩnh, “ Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chu N không có giấy phép lái xe ô tô. Khoảng 18h00’ ngày 09/4/2021, N điều khiển xe ô tô 05 chỗ ngồi, nhãn hiệu Huyndai Grand I10 biển kiểm soát 99A - 185.47, chở anh Thái Văn Phương và ông Vũ Xuân Khuê ngồi trên xe đi từ nhà N lên thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc. Đến khoảng 19h40 cùng ngày, N điều khiển xe đi đến đường Tôn Đức Thắng thuộc địa phận thôn Tam Lộng, xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, lúc này N điều khiển xe theo hướng xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên đi phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên và đi ở làn đường bên phải theo chiều đi của N với vận tốc khoảng 50 - 55km/h, tại đoạn đường này có lối mở đi vào đường dân sinh thôn Tam Lộng và có 01 biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên ở bên phải theo chiều đi của V, thì N phát hiện có xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, BKS:

88G1-140.05 do chị Lê Thị Hò - SN 1978 ở Thôn Chân , xã Hương , huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc,điều khiển đi hướng phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên đi xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên đang chuyển hướng rẽ trái sang đường để đi vào đường dân sinh thôn Tam Lộng, xã Hương Sơn. Mặc dù có biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên ở phía trước và đường dốc, trời tối bị hạn chế tầm nhìn nhưng N vẫn điều khiển xe ô tô giữ nguyên tốc tộ đi thẳng nên khi chị Hòa điều khiển xe mô tô đi cách mép đường theo hướng N đi là 2,2 mét thì phần đầu xe bên phải xe ô tô của N điều khiển đã đâm vào sườn xe bên phải xe mô tô do chị Hòa điều khiển, hất văng xe mô tô của chị Hòa lên vỉa hè bên phải theo chiều đi của V, còn chị Hòa bị hất văng giáp lề đường phía trước, lúc này anh Thái Văn Phương nói với N “Dừng, dừng, xảy ra tai nạn rồi” còn ông Vũ Xuân Khuê nói “Đỗ ...đỗ” ý bảo N dừng xe lại nhưng N không nói gì mà tiếp tục điều khiển xe đi tiếp về hướng đi thành phố Vĩnh Yên để trốn tránh trách nhiệm, thì có anh Nguyễn Văn Phúc (ở gần hiện trường vụ tai nạn) phát hiện thấy N điều khiển xe ô tô bỏ chạy nên anh Phúc điều khiển xe mô tô đuổi theo xe ô tô của V. N điều khiển xe đi tiếp được khoảng 150m thì rẽ vào đỗ xe ở cửa hàng xăng dầu Chí Linh ở bên phải đường theo hướng đi của N để tránh bị phát hiện, rồi V, anh Phương, ông Khuê xuống kiểm tra phần đầu xe ô tô của N thì anh Phúc cũng điều khiển xe mô tô đi đến và nói “Các anh đi xe gây tai nạn, các anh không quay lại cho người ta đi viện à” thì lúc này N mới quay lại hiện trường, chị Hòa được người dân đưa đi cấp cứu tại bệnh viện hữu nghị Lạc Việt - Vĩnh Yên. Sau khi tai nạn xảy ra N không trình báo ngay sự việc với cơ quan có thẩm quyền mà đi về nhà ngủ, đến chiều ngày 10/4/2021, sau khi rà soát, xác minh, Cơ quan điều tra triệu tập N làm việc, N mới đến làm việc và khai nhận hành vi điều khiển xe ô tô gây tai nạn cho chị Hòa ngày 09/4/2021. Hậu quả: Chị Hòa bị chấn thương sọ não được đưu đi cấp cứu tại Bệnh viện hữu nghị Lạc Việt - Vĩnh Yên, sau đó chuyển Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc; xe ô tô của N và xe mô tô của chị Hòa bị hư hỏng.

Sau khi nhận được tin báo Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên đã tổ chức khám nghiệm hiện trường, phương tiện, thu giữ vật chứng và các thủ tục tố tụng theo quy định.

Kết quả giám định thương tích:

Ngày 20/4/2021, Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định thương tích đối với chị Lê Thị Hò. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số:

145/TgT,ngày 27/4/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: Chị Lê Thị Hò bị tổn hại sức khỏe là 75%.

Ngày 14/12/2021, Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung thương tích đối với chị Lê Thị Hò. Tại bản kết luận giám định bổ sung pháp y về thương tích số 427/TgT, ngày 24/12/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: Chị Lê Thị Hò bị tổn hại sức khỏe là 98%.

Kết luận định giá tài sản:

Tại kết luận định giá tài sản số 65 ngày 09/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Xuyên, kết luận: Chiếc xe ô tô BKS: 99A- 185.47 bị hư hỏng thiệt hại trị giá 14.671.000 đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số 66 ngày 10/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Xuyên, kết luận: Chiếc xe mô tô BKS: 88G1 - 140.05 bị hư hỏng thiệt hại trị giá 2.358.000 đồng.

Kết quả kiểm tra nồng độ cồn, ma túy:

Tại phiếu đo nồng độ cồn số: 08672, hồi 16h52 ngày 10/4/2021của Công an huyện Bình Xuyên, trong hơi thở của Chu N không có cồn.

Tại biên bản test nhanh ma túy hồi 16h40 ngày 10/4/2021của Công an huyện Bình Xuyên, không phát hiện các loại ma túy trong nước tiểu của Chu N.

Về trách nhiệm dân sự:

Sau khi xảy ra tai nạn, do chị Lê Thị Hò bị thương tích nặng, chấn thương sọ não, khó khăn trong việc nhận thức và điều khiển hành vi nên gia đình nạn nhân Hòa đã họp thống nhất cử anh Phan Văn Tỉn là chồng chị Hòa tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của bị hại, sau đó anh Tỉnh ủy quyền lại cho ông Phan Mạnh Cườn tham gia tố tụng. Ông Cường yêu cầu Chu N phải bồi thường chi phí cho việc cấp cứu, điều trị, tiền công thuê người chăm sóc; tiền bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe, mất thu nhập với tổng số tiền là 233.000.000 đồng. N đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông Cường, ngày 13/5/2021, N đã bồi thường 38.000.000 đồng, ngoài ra ngày 11/6/2021 N đã tác động nhờ bà Lê Thị Ng SN:

1966 ở thôn Ngũ Hồ, xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên (là bạn của V) bồi thường cho ông Cường số tiền là 45.000.000 đồng. Còn lại số tiền 150.000.000 đồng chưa bồi thường, ông Cường yêu cầu N phải tiếp tục bồi thường, N đồng ý bồi thường, nhưng do chưa có tiền bồi thường nên N xin được bồi thường sau. Do vậy cần buộc N phải tiếp tục bồi thường cho chị Hòa số tiền 150.000.000 đồng.

Đối với số tiền 45.000.000 đồng bà Ngà đã bồi thường cho chị Hòa thay V, bà Ngà không yêu cầu N phải trả lại số tiền này cho bà.

Về xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ:

Đối với chiếc xe ô tô BKS: 99A - 185.47 quá trình điều tra xác làm rõ là xe ô tô của Chu N nên cần trả lại cho N chiếc xe cùng 01 đăng ký xe ô tô số:

028553 mang tên Phạm Đình Xuân ở thôn Liên Thượng, Đại Xuân, Quế Võ, Bắc Ninh, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS, 01 giấy bán xe viết tay ngày 30/3/2021 nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với chiếc xe mô tô BKS: 88G1 - 140.05, quá trình điều tra làm rõ là xe mô tô của chị Lê Thị Hò nên cần trả lại chiếc xe mô tô cùng 01 đăng ký xe cho chị Hòa.

Đối với toàn bộ bao gói cơ quan giám định hoàn trả sau giám định (mẫu sơn thu trên xe ô tô BKS: 99A - 185.47 và Xe mô tô BKS: 88G1 - 140.05) cần tịch thu tiêu hủy.

Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Chu N có nhân thân xấu, tuy không có tiền án, tiền sự nhưng đã nhiều lần bị kết án về các tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gây rối trật tự công cộng, môi giới, chứa mại dâm đã được xóa; quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo; bị cáo đã bổi thường và đã tác động nhờ gia đình bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân các khoản chi phí cấp cứu, điều trị, tổn thất tinh thần; bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Bị hại cũng có một phần lỗi là chuyển hướng không đảm bảo an toàn.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác định N không hành nghề lái xe ô tô nên không cần thiết phạt bổ sung cấm hành nghề lái xe ô tô đối với Chu N.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên Chu N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 24/CT- VKSBX ngày 26 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đã truy tố bị cáo Chu N ra trước Tòa để xét xử công khai về tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối với bị cáo giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Chu N phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, kh oản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Chu N từ 05 năm tù đến 05 năm 06 tháng tù.

Về bồi Thường: Đại diện bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 233.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của gia đình bị hại, tuy nhiên bị cáo chưa có đủ tiền bồi thường mới bồi thường được 83.000.000 đồng. Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 590 của Bộ luật dân sự xác nhận bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 83.000.000 đồng (tám mươi ba triệu đồng), buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 150.000.000 đồng.

Đề nghị xử lý vật chứng và án phí theo quy định của pháp luật. Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

Bị cáo Chu N đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên, bị cáo thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên truy tố bị bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự là đúng. Bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 150.000.000 đồng theo yêu cầu của đại diện hợp pháp của bị hại nhưng do đang bị tạm giam, xin được bồi thường sau. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Phan Mạnh Cườn trình bày: Sau khi tai nạn xảy ra Chu N đã nhiều lần đến thăm hỏi động viên gia đình ông. Bị cáo N đã bồi thường cho bị hại 38.000.000 đồng, bà Lê Thị Ng đã bồi thường thay bị cáo N cho bị hại 45.000.000 đồng, tổng số là 83.000.000 đồng. Nay gia đình ông yêu cầu N phải bồi thường thêm số tiền 150.000.000 đồng. Về hình phạt đối với bị cáo, ông đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Ng có mặt tại phiên tòa trình bày và xác nhận: Bà là bạn của bị cáo Chu N, bị cáo đã nhờ bà bồi thường cho gia đình bị hại 45.000.000 đồng, nay bà không yêu bị cáo phải trả lại số tiền này cho bà.

Người làm chứng ông Vũ Xuân Khuê và Thái Văn Phương đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai trong quá trình điều tra đều thể hiện bị cáo N là người điều khiển xe ô tô gây tai nạn cho chị Hòa, sau khi xảy ra tai nạn ông Khuê, Phương bảo N dừng lại nhưng N không dừng lại mà tiếp tục điều khiển xe đi được khoảng 150 mét đến cửa hàng xăng dầu Chí Linh thì dừng lại.

Người làm chứng anh Nguyễn Văn Phúc vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai trong quá trình điều tra thể hiện: Bị cáo sau khi điều khiển xe ô tô gây tai nạn cho chị Hòa đã điều khiển xe ô tô bỏ chạy nên anh đã điều khiển xe mô tô đuổi theo phía sau, khi đuổi theo về hướng đi Vĩnh Yên đến cửa hàng xăng dầu Chí Linh thì đuổi kịp xe ô tô của bị cáo, anh đã yêu cầu bị cáo quay lại hiện trường đưa nạn nhân đi cấp cứu.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Lan và người làm chứng anh Nguyễn Tiến Vĩnh vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng trình khai phù hợp với lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên, Kiểm sát v iên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình cụ thể như sau: Khoảng 19h40 ngày 09/4/2021, tại đường Tôn Đức Thắng thuộc địa phận thôn Tam Lộng, xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chu N, không có giấy phép lái xe ô tô theo quy định, điều khiển xe ô tô 05 chỗ ngồi nhãn hiệu Huyndai Grand I10, BKS: 99A - 185.47 đi trên đường Tôn Đức Thắng theo chiều đường hướng xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên đi phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên. Do không tuân thủ tốc độ an toàn theo quy định nên xe ô tô do N điều khiển đã đâm vào xe mô tô BKS: 88G1 - 140.05 do chị Lê Thị Hò điều khiển đi hướng phường Khai Quang, thành phồ Vĩnh Yên đi xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên, đang chuyển hướng rẽ trái đi vào đường dân sinh thôn Tam Lộng, xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc gây tai nạn, sau đó N tiếp tục điều khiển xe ô tô bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Hậu quả chị Hòa bị thương tích tổn hại 98% sức khỏe.

Hành vi của Chu N đã vi phạm khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ và khoản 1, 2 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải.

Khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ quy định:

“1. Người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường ...”.

Khoản 1, 2 Điều 5 Thông tư 31 của Bộ giao thông vận tải quy định:

“Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn trong các trường hợp sau:

1. Có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm ...;

2. ...tầm nhìn bị hạn chế;” [3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác cùng các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Chu N đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, c khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

[4] Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Xét về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Tuy không có tiền án, tiền sự nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu đã từng nhiều lần bị xét xử về nhiều loại tội khác nhau. Nay lại tham gia giao thông trong khi không có giấy phép lái xe, vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây tai nạn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của bị hại. Tuy nhiên xét thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã tự nguyện bồi thường và tác động nhờ gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại, bị cáo đã tham gia quân ngũ, bị hại cũng có một phần lỗi là chuyển hướng không đảm bảo an toàn, đó là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về phần hình phạt là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ đề nghị của Viện kiểm sát về phần hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về bồi Thường: Đại diện bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 233.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của gia đình bị hại, tuy nhiên bị cáo chưa có đủ tiền bồi thường mới bồi thường được 83.000.000 đồng. Nên cần căn cứ các Điều 584, 585, 586, 590 của Bộ luật dân sự xác nhận bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 83.000.000 đồng (tám mươi ba triệu đồng), buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 150.000.000 đồng.

[7] Về vật chứng vụ án và các vấn đề khác:

Đối với số tiền 45.000.000 đồng bà Ngà đã bồi thường cho ông Cường thay V, bà Ngà không yêu cầu N phải trả lại số tiền này cho bà, nên không giải quyết.

Về xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ:

Đối với chiếc xe ô tô BKS: 99A - 185.47 nhãn hiệu Huyndai quá trình điều tra xác làm rõ là xe ô tô của Chu N nên cần trả lại cho N chiếc xe cùng 01 đăng ký xe ô tô số: 028553 mang tên Phạm Đình Xuân ở thôn Liên Thượng, Đại Xuân, Quế Võ, Bắc Ninh, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS, 01 giấy bán xe viết tay ngày 30/3/2021 nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với chiếc xe mô tô Honda BKS: 88G1 - 140.05, quá trình điều tra làm rõ là xe mô tô của chị Lê Thị Hò nên cần trả lại chiếc xe mô tô cùng 01 đăng ký xe cho chị Hòa.

Đối với toàn bộ bao gói cơ quan giám định hoàn trả sau giám định (mẫu sơn thu trên xe ô tô BKS: 99A - 185.47 và Xe mô tô BKS: 88G1 - 140.05) cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo Chu N phạm tội trong khi không hành nghề lái xe nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Chu N phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Chu N 05 ( Năm ) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 05 tháng 06 năm 2021.

Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật dân sự 2015.

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường đối với các chi phí cho việc cấp cứu, điều trị, tiền công thuê người chăm sóc, tiền bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe, mất thu nhập với tổng số tiền là 233.000.000 đồng giữa bị cáo Chu N với ông Phan Mạnh Cườn là đại diện hợp pháp của bị hại. Xác nhận bị cáo đã bồi thường được số tiền 83.000.000 đồng (Tám mươi ba triệu đồng). Buộc Chu N tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 150.000.000 đồng ( Một trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu của gia đình chị Lê Thị Hò cho đến khi thi hành án xong, nếu Chu N không bồi thường khoản tiền trên cho gia đình chị Hòa thì bị cáo phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi xuất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự :

Trả lại cho Chu N 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai BKS 99A- 185.47 cùng 01 đăng ký xe ô tô số: 028553 mang tên Phạm Đình Xuân ở thôn Liên Thượng, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS, 01 giấy bán xe viết tay ngày 30/3/202, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda cùng 01 đăng ký xe BKS: 88G1 - 140.05 cho chị Lê Thị Hò.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ bao gói cơ quan giám định hoàn trả sau giám định (mẫu sơn thu trên xe ô tô BKS: 99A - 185.47 và Xe mô tô BKS: 88G1 - 140.05).

(Tất cả các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/04/2022).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Chu N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;