TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CĐ, TỈNH L
BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 15/07/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 15 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Tấn P; Tên gọi khác: Đen; Sinh năm: 1978; Tại: L; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp B, xã T, huyện C, tỉnh L; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 5/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn Lợi và bà: Võ Thị Huê; Vợ: Trần Ngọc Thúy; Có 02 người; Tiền án, tiền sự: Không.
- Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cứ trú từ ngày 18/03/2020 cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa).
- Người bị hại: Ông Phạm Văn Ch, sinh năm: 1949 (đã chết);
Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Phan Thị Xuân M, sinh năm 1954 (Bà M là vợ ông Ch);
Nơi cư trú: Ấp Phước Hưng, xã PL, huyện G, tỉnh L (Xin xét xử vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Phạm Thị Xuân M, sinh năm 1954 (Xin xét xử vắng mặt);
2/ Chị Phan Xuân V, sinh năm 1982 (Có mặt);
Cùng cư trú: Ấp Phước Hưng, xã PL, huyện G, tỉnh L.
- Người làm chứng:
1/ Anh Châu Tá N, sinh năm: 1974 (Vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp Rạch Bộng, xã T, huyện C, tỉnh L.
2/ Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985 (Vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện C, tỉnh L.
3/ Bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm: 1958 (Vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp 2, xã TT, huyện C, tỉnh L.
4/ Anh Phạm Văn T, sinh năm: 1979 (Vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp Mỹ Tây, xã M, huyện C, tỉnh L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi của bị cáo: Khoảng 15 giờ ngày 18/11/2019, Nguyễn Tấn P có giấy phép lái xe, điều khiển xe ba gác máy biển kiểm soát 63H5 – 18xx chở khoảng 34 bao lúa, tham gia lưu thông trên đường tỉnh 826, hướng từ cầu Rạch Đào đến chợ Rạch Kiến. Khi đến đoạn đường thuộc khu vực ấp 2, xã TT, huyện C, P thấy có xe mô tô biển kiểm soát 51V4 – 03xx do ông Phạm Văn Ch điều khiển lưu thông cùng chiều phía trước. Thời điểm này hướng ngược chiều có xe ô tô con vượt bên trái xe tải và lấn sang phần đường dành cho xe lưu thông theo hướng của P. Do chạy gần với xe của ông Ch nên P đạp thắng để xe chạy chậm lại nhưng trên xe chở nhiều lúa, ma sát yếu, xe của P vẫn chạy về phía trước nên va chạm vào đuôi xe của ông Ch, làm ông Ch và xe ngã xuống đường. Ông Ch được đưa đi cấp cứu và tử vong vào ngày 20/11/2019.
Kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm hiện trường (dựng lại), khám nghiệm phương tiện và qua kết quả khám nghiệm, đo đạc thì xác định khu vực va chạm của 2 xe nằm hoàn toàn bên phần đường bên phải, hướng từ cầu Rạch Đào đến chợ Rạch Kiến.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 717/2019/KLGĐ ngày 10/12/2019, của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh L, kết luận:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Trầy xước da ngực, kích thước (6x2)cm, dẫn lưu ngực trái.
- Vết mổ vùng bụng dài 13cm, khâu 14 mũi chỉ rời.
- Vết hằn da vùng lưng dài 11cm.
- Bầm máu cẳng tay, rách da cẳng tay và mu bàn tay phải.
- Bầm tụ máu dưới da đầu.
- Dập gãy xương sườn 5,6, tụ máu trung thất.
- Thủng phổi, cắt bỏ lách, tụ máu sau phúc mạc.
- Dập và tụ máu nhiều đoạn ruột non.
2. Nguyên nhân chết: Phạm Văn Ch, sinh năm 1949 tử vong là do bị shock đa chấn thương (vỡ lách, dập phổi, gãy xương sườn, vết thương bàn tay...) đã được phẫu thuật tuyến y tế có chuyên khoa cao nhưng không đạt kết quả.
Tại kết luận giám định số 828/C09B ngày 22/01/2020 của Phân viện KHHS tại Tp.Hồ Chí Minh kết luận: Mẫu sơn màu xanh của mẫu giám định với mẫu sơn màu xanh của mẫu so sánh, được niêm P gửi giám định có thành phần hóa học cơ bản giống nhau.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo P thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo bị truy cứu về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là đúng, không oan sai. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo tự nguyện khai báo; không có ai đe dọa, cưỡng ép, không ai bức cung nhục hình; Bị cáo không có ý kiến về Kết luận giám định pháp y, Biên bản khám nghiệm hiện trường, Sơ đồ hiện trường, Bản ảnh hiện trường, lời khai của những người làm chứng mà Hội đồng xét xử công bố tại phiên tòa. Về trách nhiệm dân sự, bị cáo đã bồi thường số tiền 40.000.000 đồng, gồm: chi phí M táng cho gia đình bị hại.
Bà Phan Thị Xuân M là người đại diện hợp pháp của người bị hại, đồng thời là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra như sau: Bà M là vợ của ông Ch. Sau khi ông Ch bị tai nạn tử vong gia đình bị cáo P đã bồi thường số tiền 40.000.000 đồng, gồm: chi phí M táng ông Ch. Nay bà M không có yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác, kể cả tổn thất về tinh thần.
Người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan chị Phan Xuân V có lời trình bày tại Cơ quan cảnh sát điều tra và tại phiên tòa như sau: Chị V là con gái ruột của bà M và ông Ch. Sau khi ông Ch bị tai nạn tử vong, gia đình bị cáo P đã bồi thường số tiền 40.000.000 đồng, gồm: chi phí M táng cho ông Ch. Nay chị V không có yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác, kể cả tổn thất về tinh thần.
Bản Cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 26/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh L truy tố bị cáo Nguyễn Tấn P về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Tấn P đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, gây hậu quả nghiêm trọng nên cần phải xử lý nghiêm.
Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại và gia đình bị hại có đơn đề nghị không xử lý hình sự đối vơi bị cáo P. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân chưa có tiền án tiền sự, kể từ khi xảy ra tai nạn giao thông cho đến nay không vi phạm pháp luật nên cần xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, cho bị cáo hưởng án treo vẫn đảm bảo răn đe, giáo dục bị cáo.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260;
điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P từ 01 năm đến 01năm 06 tháng tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02- 03 năm.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Gia đình người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì thêm nên không đề cập.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo sử dụng xe ba gác máy biển kiểm soát 63H5 – 18xx để chở thuê và là nguồn thu nhập chính nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt theo khoản 5 Điều 260 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo.
Ý kiến của bị cáo về quyết định truy tố của Viện kiểm sát: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, việc bị cáo bị truy tố về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là không oan, không sai; bị cáo không có ý kiến gì về tội danh và hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị.
Người có quyền lợi – nghãi vụ liên quan chị V không có ý kiến tranh luận. Bị cáo không có lời nói sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét nội dung vụ án: Khoảng 15 giờ ngày 18/11/2019, Nguyễn Tấn P có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe ba gác máy biển kiểm soát 63H5 – 18xx, lưu thông trên đường tỉnh 826, hướng từ cầu Rạch Đào đến chợ Rạch Kiến. Khi đến đoạn đường thuộc khu vực ấp 2, xã TT, huyện C, P điều khiển xe không giữ khoảng cách an toàn với xe phía trước, đã vi phạm khoản 1 Điều 12 Luật Giao thông đường bộ nên va chạm với xe môtô biển số 51V4 - 03xx do ông Phạm Văn Ch điều khiển lưu thông phía trước cùng chiều. Hậu quả ông Ch tử vong, do bị shock đa chấn thương.
[3] Kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm hiện trường (dựng lại), khám nghiệm phương tiện và qua kết quả khám nghiệm, đo đạc thì xác định khu vực va chạm của 2 xe nằm hoàn toàn bên phần đường bên phải, hướng từ cầu Rạch Đào đến chợ Rạch Kiến.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 717/2019/KLGĐ ngày 10/12/2019, của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh L, kết luận: Nguyên nhân chết: Phạm Văn Ch, sinh năm 1949 tử vong là do bị shock đa chấn thương (vỡ lách, dập phổi, gãy xương sườn, vết thương bàn tay...) đã được phẫu thuật tuyến y tế có chuyên khoa cao nhưng không đạt kết quả. Lời khai của bị cáo, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa phù hợp với tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án.
[4] Bị cáo P điều khiển xe không giữ khoảng cách an toàn với xe phía trước, là nguyên nhân chính dẫn đến va chạm với với xe môtô biển số 51V4 - 03xx do ông Phạm Văn Ch điều khiển lưu thông phía trước cùng chiều. Hậu quả ông Ch tử vong, lỗi của bị cáo là lỗi vô ý vì quá tự tin và đã vi phạm khoản 1 Điều 12 Luật Giao thông đường bộ.
[5] Tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự quy định: “1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;” [6] Như vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
[7] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo đã bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình người bị hại và người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; bị cáo tại ngoại đã chấp hành tốt yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, không có phản ánh vi phạm pháp luật; gia đình người bị hại có đơn đề nghị không xử lý hình sự đối với bị cáo P và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình Sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[8] Xét hình phạt:
[8.1] Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây hậu quả chết người. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để đảm bảo sức răn đe phòng ngừa chung, đảm bảo tính nghiêm minh công bằng của pháp luật; đồng thời giáo dục bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; bị cáo tại ngoại đã chấp hành tốt yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, không có phản ánh vi phạm pháp luật; gia đình người bị hại có đơn đề nghị không xử lý hình sự đối vơi bị cáo P và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có khả năng tự cải tạo, việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự nên đủ các điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo nhưng cho hưởng án treo.
[8.2] Hình phạt bổ sung: Bị cáo sử dụng xe ba gác máy biển kiểm soát 63H5 – 18xx để chở thuê và là nguồn thu nhập chính nuôi gia đình nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, miễn hình phạt theo khoản 5 Điều 260 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo.
[9] Xét trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xác định phần trách nhiệm dân sự đã thỏa thuận xong, không yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, không đề cập.
[10] Về vật chứng, tang vật của vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra có tạm giữ và đã trả lại xe cho chủ sở hữu là phù hợp.
[11] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tấn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ vào Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố:
Bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 01(một) năm 06(sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (15/7/2020).
Giao bị cáo Nguyễn Tấn P cho Ủy ban nhân dân xã T huyện C, tỉnh L theo dõi, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo (bị cáo P) thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo (bị cáo P) cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tấn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo Nguyễn Tấn P, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 20/2020/HS-ST
Số hiệu: | 20/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/07/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về