Bản án 74/2023/HS-ST về tội vi phạm quy định an toàn lao động

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12, THÀNH PH H CHÍ MINH

BN ÁN 74/2023/HS-ST NGÀY 19/05/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH AN TOÀN LAO ĐỘNG

Ngày 19/5/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 65/2023/TLST - HS ngày 20 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 323/2023/QĐXXST-HS ngày 21/4/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn T, sinh năm 1974 tại tỉnh Vĩnh Phúc. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số E đường H, khu phố C, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: xây dựng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn T (đã chết) và bà Phạm Thị C; tiền án: không; tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

Đại diện hợp pháp cho bị hại Trần Văn Q:

1/ Ông Trần C, sinh năm: 1964 (vắng mặt)

2/ Bà Huỳnh Thị D, sinh năm: 1959 (vắng mặt) Cùng cư trú: thôn H, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế

3/ Bà Nguyễn Thị Thùy T, sinh năm: 1989 (vắng mặt)

4/ Nguyễn Thị Kim U, sinh năm: 2008 do bà Nguyễn Thị Thùy T đại diện (vắng mặt).

Cùng cư trú: 8B đường số B, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Trần Văn Đ, sinh năm: 1962 (có mặt) Nơi cư trú: 340/17/14/4 đường T, khu phố A, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh

2/ Công ty TNHH Xây Dựng Hà San Địa chỉ: 6/9 đường T, phường T, Quận A. Thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện theo pháp luật: Ông Hà Văn T, chức vụ: Giám đốc (có mặt) Người làm chứng:

1/ Ông Phạm Hoàng N, sinh năm: 1977 (vắng mặt) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp C, xã Đ, Thành phố C, tỉnh Cà Mau Nơi cư trú hiện nay: khu phố D. phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh

2/ Ông Đỗ Văn T, sinh năm: 1977 (vắng mặt) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn P, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc Nơi cư trú hiện nay: nhà không số, tổ B, ấp F, xã Đ, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh

3/ Ông Hồ Văn H, sinh năm: 1977 (vắng mặt) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: P, G, huyện G, tỉnh Kiên Giang Nơi cư trú hiện nay: 45/3 khu phố D, phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh

4/ Bà Vũ Thị L, sinh năm: 1979 (vắng mặt) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: B, thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc Nơi cư trú hiện nay; 386/30 tổ F, khu phố E, phường T, Quận A, Thành phố hồ Chí Minh

5/ Ông Bùi Văn H, sinh năm: 1959 (vắng mặt) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã C, huyện M, tỉnh Bến Tre Nơi cư trú hiện nay: nhà không số, tổ F, khu phố A, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh

6/ Ông Đỗ Thương M, sinh năm: 1980 (vắng mặt) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: M, M, C, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công trình xây dựng nhà ở tại số C đường T, khu phố A, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh do Trần Văn Đ là chủ đầu tư. Ông Trần Văn Đ Ký hợp đồng thi công với Công ty TNHH X, trụ sở số F đường T, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Hà Văn T là người đại diện theo pháp luật. Công trình khởi công từ ngày 18/11/2021, dự kiến hoàn thành ngày 12/5/2022 với quy mô 01 trệt, 02 lầu, tổng diện tích sàn xây dựng là 161,88 m2, chiều cao công trình là 12,1 mét. Ông Hà Văn T là người trực tiếp quản lý, giám sát toàn bộ hoạt động xây dựng và phân công công việc cho 07 công nhân thực hiện thi công xây dựng. Tại thời điểm xảy ra tai nạn công trình đã thi công xong phần thô và đang thực hiện công tác xây tô hoàn thiện mặt dựng và các tầng công trình.

Ngày 31/12/2021, tại công trình ông T phân công các công nhân: Trần Văn Q, Phạm Hoàng N, Đỗ Thương M xây tô tại tầng 02; Hồ Văn H (H), Đỗ Văn T và Vũ Thị L xây tại tầng 01; còn ông Bùi Văn H là công nhân phụ trộn hồ chuyển gạch vào công trình tại sàn tầng trệt.

Vào khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, ông Trần Văn Q sử dụng các tấm cốp pha dầm sàn (tấm sắt) đặt trên hệ khung giàn giáo đã được lắp đặt sẵn từ trước dùng làm sàn thao tác vị trí đứng thực hiện công việc tô tường mặt ngoài của sàn tầng 02 cùng với ông Đỗ Thương M, Phạm Hoàng N. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, ông Trần Văn Q đang thực hiện tô vị trí mái xéo của công trình thì tấm sàn thao tác (tấm sắt) của ông Q đang đứng bị rớt khỏi khung giàn giáo, làm ông Q ngả từ độ cao khoảng 12,5 mét xuống nền đất trước công trình, các công nhân làm chung đã đưa ông Q đi cấp cứu tại Bệnh viện Q1 nhưng ông Q đã tử vong trước khi nhập viện.

Biên bản điều tra tai nạn lao động ngày 28/4/2022 của Đoàn điều tra tai nạn lao động Thành phố H kết luận vụ tai nạn làm chết ông Trần Văn Q là tai nạn lao động: Xác định ông Hà Văn T là người có lỗi và đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Q và Viện kiểm sát nhân dân Quận 12 xem xét khởi tố vụ tai nạn lao động và truy cứu trách nhiệm đối với cá nhân liên quan (BL số 128-132).

* Kết luận giám định pháp y số 408-22/KLGĐ-PY ngày 21/2/2022 của Phòng K Công an Thành phố H kết luận:

“- Nguyên nhân chết: Trần Văn Q chết do chấn thương sọ não;

- Trong máu không tìm thấy cồn và ma túy;

- Cơ chế hình thành dấu vết:

Các tổn thương xây xát bên ngoài vùng đầu nạn nhân là do va chạm, tiếp xúc trực tiếp với vật tày gây ra. Tổn thương bên trong là tổn thương chấn thương sọ não theo cơ chế hỗn hợp (cơ chế tác động trực tiếp và dầu di động) gây ra.

Các tổn thương xây xát da trên thân người và tay, chân nạn nhân là do va chạm, tiếp xúc trực tiếp với vật tày gây ra (BL số 65-70)” Vật chứng thu giữ:

01 tấm kim loại hình chữ nhật, kích thước 1 mét x 0,5 mét; dày 2cm;

01 tấm gỗ hình chữ nhật kích thước 0.8m x 0,3m, dày 2cm;

03 bộ dây đai an toàn;

07 mũ bảo hộ lao động màu cam;

04 đôi giày (ủng) bằng nhựa dùng bảo hộ lao động.

Trong quá trình điều tra, xét không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Q đà trả lại cho chủ sở hữu là ông Hà Văn T.

Trách nhiệm dân sự: Bị can Hà Văn T đà bồi thường cho gia đình nạn nhân Trần Văn Q số tiền 100.000.000 đồng, gia đình nạn nhân không yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin bãi nại (BL 78-79).

Bán Cáo trạng số 64/CTr-VKS ngày 21/3/2023 Viện kiểm sát nhân dân Quận 12 đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân Quận 12 để xét xử bị cáo Hà Văn T về tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động” theo điểm a khoản 1 Điều 295 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Hà Văn T đã nhận phạm tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động”, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ thể hiện tại hồ sơ vụ án, hành vi của bị cáo Hà Văn T có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động” theo điểm a khoản 1 Điều 295 Bộ luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động”, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng đề nghị cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 đến 03 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo Hà Văn T tự nguyện hỗ trợ thêm cho vợ con của bị hại là bà Nguyễn Thị Thùy T, Nguyễn Thị Kim U số tiền 50.000.000 đồng.

Bị cáo Hà Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo ăn năn, hối hận về hành vi của mình, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất vì bị cáo còn nuôi mẹ già và nuôi gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định truy tố của Cơ quan điều tra Công an Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 12, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ phạm tội: Xét thấy trên cơ sô kết quả điều tra cũng như lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa có căn cứ xác định: Bị cáo Hà Văn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, là người đại diện theo pháp luật cho Côna ty TNHH X (hoạt động trong lĩnh vực thi công xây dựng), công trình xây dựng nhà ở tại số C đường T, khu phố A, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh do Trần Văn Đ là chủ đầu tư, ông Đ ký hợp đồng thi công với Công ty TNHH X, công trình khởi công từ ngày 18/11/2021, dự kiến hoàn thành ngày 12/5/2022 quy mô 01 trệt, 02 lầu, ông Hà Văn T là người trực tiếp quản lý, giám sát toàn bộ hoạt động xây dựng và thi công xây dựng. Vào thời điểm xảy ra tai nạn lúc 14 giờ 00 phút, ông Trần Văn Q sử dụng các tấm cốp pha dầm (tấm sắt) đặt trên hệ khung giàn giáo đã được lắp đặt sẵn dùng làm thao tác vị trí đứng thực hiện công việc tô tường mặt ngoài của sàn tầng 02 cùng với ông Đỗ Thương M, Phạm Hoàng N, đến khoảng 16 giờ 30 phút, ông Trần Văn Q đang thực hiện tô vị trí mái xéo của công trình thì tấm sàn thao tác của ông Q đang đứng bị rớt khói khung giàn giáo, làm ông Q ngã từ độ cao khoáng 12,5 m xuống nền đất phải đưa đi cấp cứu và đã chết.

Hành vi của bị cáo Hà Văn T đã vi phạm quy định của nhà nước về an toàn lao động, tổ chức thi công công trình nhưng không thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động cho người lao động làm việc tại công trình: thực hiện dàn giáo thi công xây không đảm bảo an toàn, thực hiện mâm sàn thao tác bằng tấm cốp pha dầm sàn không đúng quy định, vi phạm quy định tại Điều 2.8 Quy chuẩn Việt Nam QCVN 18: 2014/BXD “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia an toàn trong xây dựng”, không cử người làm công tác an toàn vệ sinh lao động, không tổ chức huấn luyện an toàn lao động - vệ sinh lao động cho người lao động theo đúng quy định, không cử người giám sát lao động nên người lao động làm việc khi chưa thực hiện đầy đủ các biện pháp an toàn, không trang bị đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động trước khi làm việc, không xây dựng nội quy, quy định làm việc an toàn lao động, biện pháp thi công, biện pháp đảm bảo an toàn cho người lao động..., vi phạm các Điều 7, 14, 15, 16, 23, 72 Luật an toàn, vệ sinh lao động được hướng dẫn tại Thông tư 04/2014/TT-BLĐTBXH ngày 12/02/2014 của Bộ L gây thiệt hại đến tính mạng người khác. Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 295 Bộ luật hình sự.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo Hà Văn T có nhân thân tốt.

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại và đại diện cho phía bị hại đã có đơn bãi nại xin không truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, gia đình bị cáo thuộc gia đình có công cách mạng, hiện nay bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và có mẹ già yếu được chính quyền địa phương xác nhận.

Căn cứ Điều 65 Bộ luật hình sự và Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, xét về nhân thân và nhận thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và các có đủ điều kiện để được áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử khi nghị án đã thống nhất không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà xem xét xử phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo để cho bị cáo có cơ hội sửa sai, có điều kiện lao động và cải tạo, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, qua phân tích của Hội đồng xét xử về mức độ thiệt hại xảy ra, bị cáo Hà Văn T đồng ý tự nguyện sẽ hỗ trợ thêm cho phía vợ con của bị hại số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động”.

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 295, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Hà Văn T 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 19/5/2023.

Giao bị cáo Hà Văn T về chính quyền địa phương nơi cư trú là Ủy ban nhân dân phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

(Đã giải thích chế định án treo đối với bị cáo).

Căn cứ khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015; sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp bị cáo Hà Văn T thay đổi nơi làm việc hoặc nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Căn cứ khoản 5 Điều 295 Bộ luật hình sự:

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn T.

* Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Hà Văn T đồng ý bồi thường thêm cho phía vợ con bị hại là bà Nguyễn Thị Thùy T Và Nguyễn Thị Kim U số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng, thi hành khi án có hiệu lực pháp luật.

* Về án phí: Căn cứ Luật phí và lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH4 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Hà Văn T chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng. Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên Tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với các đại diện bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án. quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2023/HS-ST về tội vi phạm quy định an toàn lao động

Số hiệu:74/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 12 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;