Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN ĐƯỚC, TỈNH LA

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh LA xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S, tên gọi khác: không; Sinh năm: 1978, tại: BL; Nơi ĐKNKTT: Ấp R, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh BL; Nơi cư trú: ấp 3, xã BC, huyện BC, thành phố HCM; Nghề nghiệp: tài xế; Trình độ học vấn: 5/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông: Nguyễn Văn TH và bà: Nguyễn Thị L; Vợ: Lê Thị Bích Th; Con: Nguyễn Thị Mỹ Giao, sinh năm: 2011.

- Tiền sự: Không.

- Tiền án: Tại bản án số 02/2007/HSST ngày 05/01/2007 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Tp.HCM xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 26/01/2008 ( chưa chấp hành án phí và nghĩa vụ bồi thường).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/9/2021 tại Nhà tạm giữ Công an huyện CĐ cho đến nay (có mặt).

Người chứng kiến:

1/ Anh Dương Thành A, sinh năm: 1977;

Địa chỉ: 22/44 NKKN, phường TH Tam, thành phố VT, tỉnh BR VT (vắng mặt).

2/ Anh Nguyễn Văn C, sinh năm: 1971;

Địa chỉ: ấp 3, xã LK, huyện CĐ, tỉnh LA ( vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi của bị cáo: Ngày 01/8/2021, Nguyễn Văn S cùng với người bạn tên S (chưa rõ lai lịch) đi đến quận Bình Tân, Tp.HCM để S mua 01 gói ma túy có khối lượng 9,1917 gam loại Methamphetamine với số tiền 3.500.000 đồng của người phụ nữ tên C (chưa rõ lai lịch). S bỏ số ma túy trên vào bên trong ống bơm hơi (loại chân đạp) và thuê S đem giao cho người phụ nữ tên V (không rõ địa chỉ) ở xã Phước Vân, huyện CĐ với tiền công là 500.000 đồng sau khi giao xong mới nhận tiền. S đồng ý rồi đem ống bơm có chứa ma túy về nhà trọ tại ấp 3, xã BC, huyện BC, Tp.HCM cất giấu. Ngày 03/8/2021, S cầm ống bơm trên tay rồi đi bộ từ nhà trọ đến cầu LK thuộc Ấp 1, xã LK, huyện CĐ, tỉnh LA để giao ma túy cho Vân. Khi đến gần cầu LK, S điện thoại cho V nhưng V không nghe máy và có một thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ) điện thoại cho S kêu lấy gói ma túy bên trong ống bơm đã cất giấu nên S lấy từ trong ống bơm ra 01 vỏ bao thuốc lá Hòa Bình có chứa gói ma túy bỏ vào trong túi quần phía trước bên trái, ống bơm hơi đem giấu ở gốc cây gần đó, rồi đi bộ đến cầu LK. V nhờ bạn là Dương Thành A điều khiển xe mô tô đến đón S. Nhưng khi S và A đến chốt kiểm dịch Covid- 19 trên đường 835 thuộc Ấp 1 xã LK, huyện CĐ, tỉnh LA thì bị lực lượng Công an kiểm tra, S bỏ chạy, ném vỏ bao thuốc lá có chứa gói ma túy xuống ao gần đó. Có nghi vấn nên lực lượng Công an bắt giữ S, A và lập biên bản bắt quả tang, thu giữ số ma túy nêu trên.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn S khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo bị truy tố về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là đúng, không oan sai. Bị cáo không có ý kiến về Bản kết luận giám định số 686/KLGĐ, ngày 10/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LA kết luận: Tinh thể rắn màu trắng đựng trong 01 túi nylon có rãnh khép viền đỏ được niêm phong gửi đi giám định là ma túy có khối lượng 9,1917 gam loại Methamphetamine. Bị cáo không có sử dụng ma túy. Do thực hiện giãn cách xã hội, không có việc làm và cần tiền lo cho gia đình nên bị cáo nhận lời của S đi giao ma túy để nhận tiền công. Bị cáo không biết việc S và V thỏa thuận việc mua bán ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 03/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ đã truy tố Nguyễn Văn S về tội vận chuyển trái phép chất ma túy theo điểm h khoản 2 Điều 250 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn S. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 08 đến 09 năm tù.

Xét bị cáo thất nghiệp nên đề nghị miễn phạt tiền cho bị cáo Nguyễn Văn S theo khoản 5 Điều 250 của Bộ luật hình sự.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ Luật hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy 01( một) túi nylon bên trong chứa 8,1664 gam Methamphetamine (Khối lượng hoàn trả lại sau giám định); 01 ống bơm hơi, loại chân đạp và tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung màu vàng đồng, loại cảm ứng.

Ý kiến của bị cáo về quyết định truy tố của Viện kiểm sát: bị cáo không tranh luận.

Bị cáo có lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét nội dung vụ án: Qua tranh tụng tại phiên tòa có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử khẳng định: Ngày 01/8/2021, Nguyễn Văn S cùng với S đến quận Bình Tân, thành phố HCM để S mua 01 gói ma túy có khối lượng 9,1917gam, loại Methamphetamine với giá 3.500.000 đồng. Sau đó S thuê S đi giao ma túy cho V nhận tiền công là 500.000 đồng. Ngày 03/8/2021, S đem số ma túy trên đến Ấp 1, xã LK, huyện CĐ, tỉnh LA để giao cho V thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang và tạm giữ tang vật.

Điều 250 Bộ luật Hình sự quy định như sau:

“1. Người nào vận chuyển trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

...

h)Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

... ” Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn S đã cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 2 Điều 250 của Bộ luật Hình sự. Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “ Vận chuyển trái phép chất ma túy” .

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiên hành vi phạm tội khi chưa được xóa án tính, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, con của bị cáo còn nhỏ đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình như đề nghị của đại diện viện kiểm sát.

[5] Xét hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; xâm phạm trật tự an toàn xã hội; tác động xấu đến nếp sống văn minh lành mạnh; gây mất an ninh trật tự tại địa phương.Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm mới đủ sức răn đe phòng ngừa chung, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; đồng thời giáo dục bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Với tính chất hành vi, khả năng nhận thức của bị cáo, mức độ hậu quả mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Do bị cáo không có thu nhập nên miễn phạt tiền cho cho bị cáo S như đề nghị của đại diện viện kiểm sát.

[6] Về vật chứng, tang vật của vụ án: 01( một) túi nylon bên trong chứa 8,1664 gam Methamphetamine (Khối lượng hoàn trả lại sau giám định); 01 ống bơm hơi, loại chân đạp và 01 điện thoại di động Samsung màu vàng đồng, loại cảm ứng; bị cáo S dùng vào việc phạm tội. Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 của Bộ Luật hình sự: tịch thu tiêu hủy 01( một) túi nylon bên trong chứa 8,1664 gam Methamphetamine (Khối lượng hoàn trả lại sau giám định); 01 ống bơm hơi, loại chân đạp và tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung màu vàng đồng, loại cảm ứng.Vật chứng hiện nay Chi cục Thi hành án Dân sự huyện CĐ, tỉnh LA đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/12/2021 và ngày 18/02/2022.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đối với V hiện chưa rõ lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an huyện CĐ đang tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.

Đối với Dương Thành A là người V nhờ đi đón S khi vừa đến thì S đã bị lực lượng Công an bắt giữ nên không có liên quan đến hành vi của S do đó Cơ quan CSĐT không đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm đối với A là phù hợp.

Riêng C là người bán ma túy và S là người mua ma túy thuê S giao cho V nhưng hiện chưa rõ lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an huyện CĐ đã bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện BC và quận Bình Tân – Tp.HCM tiếp tục điều tra để xử lý theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm h, khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Áp dụng Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 329 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “ Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/9/2021.

Tiếp tục tạm giam Nguyễn Văn S 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ( 29/3/2022) để đảm bảo kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về xử lý vật chứng, tang vật của vụ án: tịch thu tiêu hủy: 01 (một) túi nylon bên trong chứa 8,1664 gam Methamphetamine (Khối lượng hoàn trả lại sau giám định); 01 ống bơm hơi, loại chân đạp và tịch thu sung ngân sach Nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung màu vàng đồng, loại cảm ứng. Vật chứng hiện nay Chi cục Thi hành án Dân sự huyện CĐ, tỉnh LA đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày ngày 06/12/2021 và ngày 18/02/2022.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

705
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;