Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 79/2021/HS-ST NGÀY 19/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19/11/2021, tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 88/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2021/QĐXXST-HS ngày 09/11/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Đại Th, sinh năm 1997, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: T6, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Tr độ học vấn: 07/12; giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Đại L và bà Nguyễn Thị H (đã chết); Gia đình có 05 người con, bị cáo là con thứ năm; Tiền án; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 15/6/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp xử lý hành Chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng, đã chấp hành xong vào ngày 27 tháng 12 năm 2018.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/8/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’Leo, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Lê Văn Tr – sinh năm 1967. Nơi cư trú: T1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

+ Phạm Văn H – sinh năm 1972. Nơi cư trú: T7, xã ES, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

+ Phạm H1 – sinh năm 1967. Nơi cư trú: T6, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

+ Lê Văn Q – sinh năm 1976. Nơi cư trú: T7, xã ES, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

+ Lê Thị Hằng M – sinh năm 1979. Nơi cư trú: T6, xã ES, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

+ Nguyễn Kim Th – sinh năm 1981. Nơi cư trú: T3, xã DY, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

+ Trần Thị H2 - sinh năm 1974. Nơi cư trú: T2, thị trấn ED, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

+ Đinh Thị Ch – sinh năm 1981. Nơi cư trú: TC1, xã DY, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

+ Tạ Thị Tr1 – sinh năm 1980. Nơi cư trú: TC3, xã DY, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

+ Nguyễn Thị Thu V – sinh năm 1983. Nơi cư trú: TC1, xã DY, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

+ Nguyễn Thị Th1 – sinh năm 1993. Nơi cư trú: BT, xã ES, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

+ Nguyễn S - sinh năm 1977. Nơi cư trú: T7, xã ES, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ, ngày 05/8/2021, Võ Đại Th đi bộ đến rẫy của ông Phạm Văn H ở tại khu vực t1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây, Th thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu TEAM, biển số 47H6 - 7247 của ông H đang dựng trong rẫy nhưng không có người trông coi. Thấy vậy, Th tiếp cận chiếc xe mô tô rồi dùng tay tháo dây điện ổ khóa, nổ máy chạy về hướng xã Dliê Yang, huyện Ea H’Leo, trên đường đi Th dừng xe mô tô lại tháo biển số vứt bên đường. Sau đó, Th đem chiếc xe mô tô bán cho Nguyễn Thị Thu V và Đinh Thị Ch đều trú tại: TC1, xã DY, huyện E, đang đi thu mua phế liệu dạo với số tiền 500.000 đồng. Sau khi mua xe mô tô của Th thì bà V và Ch bán lại cho Tạ Thị Tr1, trú tại thôn TC3, xã DY, huyện E, được số tiền 980.000 đồng. Sau khi bị mất xe mô tô ông Phạm Văn H đã làm đơn báo gửi đến Công an xã Ea Hiao, huyện Ea H’Leo, để Tr báo sự việc. Ngày 06/8/2021, qua công tác nắm tình hình Công an xã Ea Hiao triệu tập Võ Đại Th đến Công an xã EH để làm việc. Tại Công an xã EH Võ Đại Th đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại biên bản kết luận định giá tài sản số: 473/BB-ĐGTS, ngày 10/8/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Ea H’Leo kết luận:

01 chiếc xe mô tô biển số 47H6 – 7247 có giá trị là 800.000 đồng.

Quá Tr điều tra bị cáo Võ Đại Th khai nhận trước đó đã 05 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn xã EH và xã DY, huyện E, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 15 giờ 00, ngày 30/7/2021, Võ Đại Th đi bộ đến rẫy của ông Phạm H1 ở T6, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Lúc này, Th phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu FUSIN, biển số 47K4 - 1002 đang để trong rẫy nhưng không có người trông coi. Thấy vậy, Th đi đến tiếp cận chiếc xe mô tô thì thấy chìa khóa đang cắm sẵn ở ổ khóa điện của xe mô tô. Khi đó, Th đến dắt xe mô tô rồi nổ máy chạy về hướng xã Dliê Yang. Sau đó, Th tiếp tục điều khiển xe đi về khu vực Km 72 thuộc xã Ea Nam, huyện Ea H’Leo, để tìm nơi tiêu thụ. Trên đường đi Th gặp một người phụ nữ (không xác định được nhân thân lai lịch) đang đi thu mua phế liệu, Th đã bán xe mô tô cho người phụ nữ với giá 400.000 đồng. Toàn bộ số tiền trên Th đã tiêu xài và mua ma túy sử dụng hết.

Tại biên bản kết luận định giá tài sản số: 473/BB-ĐGTS, ngày 10/8/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Ea H’Leo kết luận:

01 chiếc xe mô tô biển số 47K4 - 1002, có giá trị là 1.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 01/8/2021, Võ Đại Th đi ngang qua rẫy của bà Lê Thị Hằng M ở T6, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Khi đó, Th thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, biển số 47K3 - 6423, của bà M đang dựng trong rẫy nhưng không có người trông coi. Thấy vậy, Th tiếp cận chiếc xe mô tô rồi nổ máy chạy xe mô tô về khu vực xã Dliê Yang, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó Th đem bán chiếc xe mô tô trộm cắp được cho một người phụ nữ (không xác định được nhân thân lai lịch) với giá 500.000 đồng. Toàn bộ số tiền trên Th đã tiêu xài và mua ma túy sử dụng hết.

Tại biên bản kết luận định giá tài sản số: 473/BB-ĐGTS, ngày 10/8/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Ea H’Leo kết luận:

01 chiếc xe mô tô biển số 47K3 – 6423, có giá trị là 1.200.000 đồng.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 10 giờ, ngày 03/8/2021, Võ Đại Th đi đến rẫy của ông Lê Văn Q ở khu vực thôn 5, xã Dliê Yang, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk. Lúc này, Th thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM, biển số 47N1 - 7823 của ông Q đang dựng trong rẫy không có người trông coi. Thấy vậy, Th tiếp cận chiếc xe mô tô, thấy chìa khóa cắm sẵn ở ổ khóa điện, Th ngồi lên xe nổ máy rồi chạy về hướng khu vực đường tránh thuộc xã Dliê Yang, huyện Ea H’Leo. Sau đó Th đem bán chiếc xe mô tô cho một người đàn ông thu mua phế liệu (không xác định được nhân thân lai lịch) được số tiền 400.000 đồng. Số tiền này Th đã tiêu xài hết.

Tại biên bản kết luận định giá tài sản số: 473/BB-ĐGTS, ngày 10/8/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Ea H’Leo kết luận:

01 chiếc xe mô tô biển số 47N1 - 7823, có giá trị là 1.500.000 đồng.

Vụ thứ tư: Vào khoảng 14 giờ, ngày 03/8/2021, Võ Đại Th đi bộ đến khu vực rẫy cà phê của ông Nguyễn Kim Th tại khu vực T1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây, Th thấy có chiếc xe mô tô nhãn hiệu VALOUR, biển số 38H7-2518 của ông Th đang dựng trong rẫy không có người trông coi. Thấy vậy, Th dùng tay tháo dây điện ổ khóa điện, nổ máy xe chạy về hướng xã Dliê Yang, huyện Ea H’Leo. Trên đường đi Th dừng lại tháo biển số vứt bên đường. Sau đó Th điều khiển xe mô tô đến khu vực trường Trung học phổ thông Trường Chinh thuộc t2, xã ES, huyện E. Khi đó, Th gặp bà Trần Thị H2 trú tại t2, thị trấn ED, huyện E, tỉnh Đắk Lắk đang đi thu mua phế liệu. Th đã bán chiếc xe mô tô cho bà H2 được số tiền 500.000 đồng. Sau khi mua xe mô tô của Th thì bà Trần Thị H2 bán lại xe mô tô nêu trên cho anh Nguyễn S t7, xã ES, huyện E, tỉnh Đắk Lắk với số tiền 1.200.000 đồng.

Tại biên bản kết luận định giá tài sản số: 473/BB-ĐGTS, ngày 10/8/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Ea H’Leo kết luận:

01 chiếc xe mô tô biển số 38H7 - 2518, có giá trị là 1.200.000 đồng.

Vụ thứ năm: Vào khoảng 17 giờ, ngày 03/8/2021, Võ Đại Th đi bộ đến khu vực rẫy của ông Lê Văn Tr tại t1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Khi đó, Th phát hiện có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu DRUM, biển số 47H5 - 4262 của ông Tr đang dựng trong rẫy nhưng không có người trông coi. Thấy vậy, Th dùng tay tháo dây điện ổ khóa, nổ máy chạy về hướng xã Ea Sol, huyện Ea H’Leo. Sau đó Th đem bán chiếc xe mô tô trộm cắp được cho Nguyễn Thị Th1 trú tại BT, xã ES, huyện E, tỉnh Đắk Lắk với giá 700.000 đồng. Số tiền này Th đã tiêu xài hết.

Tại biên bản kết luận định giá tài sản số: 473/BB-ĐGTS, ngày 10/8/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Ea H’Leo kết luận:

01 (một) xe mô tô biển số 47H5 - 4262, có giá trị là 1.500.000 đồng.

Tại biên bản xác định hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo lập vào ngày 07/8/2021, đã xác định địa điểm nơi bị can Võ Đại Th thực hiện hành vi trộm cắp 06 chiếc xe mô tô nêu trên, cụ thể như sau:

Vị trí nơi Võ Đại Th lấy trộm cắp xe mô tô biển số 47K4-1002, nhãn hiệu FUSIN vào ngày 30/7/2021 là rẫy của ông Phạm H1 thuộc T6, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Vị trí nơi Võ Đại Th lấy trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, biển số 47K3 - 6423 vào ngày 01/8/2021 là rẫy của bà Lê Thị Hằng M thuộc T6, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Vị trí nơi Võ Đại Th lấy trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát 47N1 - 7823 vào ngày 03/8/2021 tại rẫy của ông Lê Văn Q thuộc t5, xã DY, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Vị trí nơi Võ Đại Th lấy trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu VALOUR, biển số 38H7 - 2518 vào ngày 03/8/2021 tại rẫy của ông Nguyễn Kim Th thuộc t1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Vị trí nơi Võ Đại Th lấy trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu DRUM, biển số 47H5 - 4262 vào ngày 03/8/2021 tại rẫy của ông Lê Văn Tr thuộc t1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

Vị trí nơi Võ Đại Th lấy trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu TEAM, biển số 47H6 - 7247 vào ngày 05/8/2021 tại rẫy của ông Phạm Văn H thuộc T1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk .

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung tại bản cáo trạng số 86/CT-VKS, ngày 22/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo đối với bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Võ Đại Th, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Đại Th mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 07/8/2021.

Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã giao trả 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu DRUM biển số 47H5 - 4262 cho ông Lê Văn Tr; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu TEAM, không có biển số cho ông Phạm Văn H; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu VALOUR, không có biển số, số khung 00886, số máy 00886 cho ông Nguyễn Kim Th là những người chủ sở H1 hợp pháp.

Đối với 03 chiếc xe mô tô gồm: chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM, biển số 47N1 - 7823 của ông Lê Văn Q, chiếc xe mô tô nhãn hiệu FUSIN, biển số 47K4 - 1002 của ông Phạm H1 và chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, biển số 47K3 - 6423 của bà Lê Thị Hằng M. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã tiến hành xác minh, truy tìm nhưng không có kết quả.

Đối với biển số xe 47H6 - 7247 và 38H7 - 2518, Võ Đại Th đã tháo vứt bỏ trên đường, không nhớ vị trí nên không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc bị cáo Võ Đại Th đồng ý bồi thường cho ông Nguyễn Kim Th số tiền 1.000.000 đồng; Ông Phạm H1 số tiền 2.000.000 đồng; Ông Lê Văn Q số tiền 3.500.000 đồng; Bà Nguyễn Thị Th1 số tiền 700.000 đồng;

Bà Trần Thị H2 trả lại cho ông Nguyễn S số tiền 1.200.000 đồng.

Bà Trần Thị H2, bà Trần Thị Thu V, bà Đinh Thị Ch, bà Lê Thị Hằng M, ông Lê Văn Tr, ông Phạm Văn H không yêu cầu bồi thường.

Đối với bà Trần Thị H2, Nguyễn Thị Th1, Nguyễn Thị Thu V, Đinh Thị Ch, Tạ Thị Tr1 đã có hành vi mua tài sản của bị cáo Võ Đại Th. Tuy nhiên, khi mua bà H2, bà Th1, bà V, bà Ch, bà Tr1 không biết tài sản do Th phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý.

Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Võ Đại Th thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 30/7/2021 đến ngày 05/8/2021, trên địa bàn xã EH và xã DY, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk Võ Đại Th đã có hành vi liên tiếp trộm cắp 06 chiếc xe mô tô. Cụ thể: Khoảng 15 giờ ngày 30/7/2021 tại T6, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk bị cáo Th đã trộm cắp xe mô tô biển số 47K4 - 1002, nhãn hiệu FUSIN của ông Phạm H1, có giá trị 1.000.000 đồng; khoảng 14 giờ ngày 01/8/2021 tại T6, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk bị cáo Th đã trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, biển số 47K3 - 6423 của bà Lê Thị Hằng M có giá trị 1.200.000 đồng; khoảng 09 giờ ngày 03/8/2021 tại thôn 5, xã Dliê Yang, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk bị cáo Th đã trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát 47N1 - 7823 của ông Lê Văn Q có giá trị 1.500.000 đồng; khoảng 14 giờ 30’ngày 03/8/2021 tại t1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk bị cáo Th đã trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu VALOUR, biển số 38H7-2518 của ông Nguyễn Kim Th có giá trị 1.200.000 đồng; khoảng 15 giờ 45’ ngày 03/8/2021 tại t1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk bị cáo Th đã trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu DRUM, biển số 47H5 - 4262 của ông Lê Văn Tr có giá trị 1.500.000 đồng; Khoảng 07 giờ ngày 05/8/2021 tại T1, xã EH, huyện E, tỉnh Đắk Lắk bị cáo Th đã trộm cắp xe mô tô nhãn hiệu TEAM, biển số 47H6 - 7247 của ông Phạm Văn H có giá trị 800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt trị giá 7.200.000 đồng.

Xét thấy, Võ Đại Th đã nhiều lần thực hiện cùng loại hành vi trộm cắp tài sản một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, nhưng mỗi lần trị giá tài sản bị trộm cắp dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành Chh và chưa hết thời hiệu xử phạt hành Chính. Tuy nhiên, tính tổng trị giá tài sản của các lần mà bị cáo đã trộm cắp được, thì trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự nên hành vi của bị cáo Th phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo tổng trị giá tài sản của các lần bị xâm phạm.

Do đó, việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo truy tố bị cáo Võ Đại Th về tội: Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị pH2 cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị pH2 tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây nguy hiểm cho xã hội, Tr1 tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang tới quần chúng nhân dân tại địa phương.

Bị cáo là người có nhân thân xấu: Ngày 15/6/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo áp dụng biện pháp xử lý hành Chh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng, đã chấp hành xong nhưng bị cáo không coi đó là bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, mà lại thực hiện các hành vi trộm cắp tài sản với mục đích để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới đủ tác dụng trừng trị, đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo thành người sống biết chấp hành pháp luật. Ngoài ra, còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Vì xét thấy, trong quá Tr điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn và bị cáo đã tự thú về các lần phạm tội trước đó mà bị cáo đã gây ra. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, i, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự mà Hội đồng xét xử cần cân nhắc, xem xét.

Đối với Trần Thị H2, Nguyễn Thị Th1, Nguyễn Thị Thu V, Đinh Thị Ch, Tạ Thị Tr1 đã có hành vi mua tài sản của bị cáo Th. Tuy nhiên, khi mua bà H2, bà Th1, bà V, bà Ch, bà Tr1 không biết tài sản do Th phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý.

[3]. Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã giao trả 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu DRUM biển số 47H5 - 4262 cho ông Lê Văn Tr; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu TEAM, không có biển số cho ông Phạm Văn H; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu VALOUR, không có biển số, số khung 00886, số máy 00886 cho ông Nguyễn Kim Th là những người chủ sở H1 hợp pháp.

Đối với 03 chiếc xe mô tô gồm: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM, biển số 47N1 - 7823 của ông Lê Văn Q; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu FUSIN, biển số 47K4 - 1002 của ông Phạm H1 và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, biển số 47K3 - 6423 của bà Lê Thị Hằng M. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã tiến hành xác minh, truy tìm nhưng không có kết quả, nên không đề cập xử lý.

Đối với biển số xe 47H6 – 7247 và 38H7 – 2518, Võ Đại Th đã tháo vứt bỏ trên đường, không nhớ vị trí nên không thu giữ được, nên không đề cập xử lý.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 585 và khoản 1 Điều 589 Bộ luật dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của ông Nguyễn Kim Th, ông Phạm Văn H1, ông Lê Văn Q, bà Nguyễn Thị Th1. Vì vậy, buộc bị cáo Võ Đại Th phải bồi thường cho ông Nguyễn Kim Th số tiền 1.000.000 đồng; ông Phạm Văn H1 số tiền 2.000.000 đồng; ông Lê Văn Q số tiền 3.500.000 đồng; bà Nguyễn Thị Th1 số tiền 700.000 đồng;

Bà Trần Thị H2 trả lại xong cho ông Nguyễn S số tiền 1.200.000 đồng.

Ông S không có yêu cầu gì thêm, nên không đề cập giải quyết.

Bà Trần Thị H2, bà Trần Thị Thu V, bà Đinh Thị Ch, bà Lê Thị Hằng M, ông Lê Văn Tr, ông Phạm Văn H không yêu cầu bồi thường, nên không đạt ra để giải quyết.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 360.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Võ Đại Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Đại Th 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 07/8/2021.

Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã giao trả 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu DRUM biển số 47H5 - 4262 cho ông Lê Văn Tr; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu TEAM, không có biển số cho ông Phạm Văn H; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu VALOUR, không có biển số, số khung 00886, số máy 00886 cho ông Nguyễn Kim Th là những người chủ sở H1 hợp pháp.

Đối với 03 chiếc xe mô tô gồm: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM, biển số 47N1 - 7823 của ông Lê Văn Q; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu FUSIN, biển số 47K4 - 1002 của ông Phạm H1 và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONLEI, biển số 47K3 - 6423 của bà Lê Thị Hằng M. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã tiến hành xác minh, truy tìm nhưng không có kết quả, nên không đề cập xử lý.

Đối với biển số xe 47H6 – 7247 và 38H7 – 2518, Võ Đại Th đã tháo vứt bỏ trên đường, không nhớ vị trí nên không thu giữ được, nên không đề cập xử lý.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 585 và khoản 1 Điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Võ Đại Th phải bồi thường cho ông Nguyễn Kim Th số tiền 1.000.000 đồng; ông Phạm H1 số tiền 2.000.000 đồng; ông Lê Văn Q số tiền 3.500.000 đồng; bà Nguyễn Thị Th1 số tiền 700.000 đồng;

Bà Trần Thị H2 trả lại xong cho ông Nguyễn S số tiền 1.200.000 đồng.

Ông S không có yêu cầu gì thêm, nên không đề cập giải quyết.

Bà Trần Thị H2, bà Trần Thị Thu V, bà Đinh Thị Ch, bà Lê Thị Hằng M, ông Lê Văn Tr, ông Phạm Văn H không yêu cầu bồi thường, nên không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Võ Đại Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 360.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2021/HS-ST

Số hiệu:79/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;