Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 80/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 80/2021/HSST NGÀY 02/07/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 02 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện QV, tỉnh BN mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 81/2021/HSST ngày 05 tháng 5 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2021/QĐXXST - HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 và các quyết định hoãn phiên tòa số 05 ngày 20/5/2021; Số 09 ngày 18/6/2021, đối với các bị cáo:

1. Trần Thị V, sinh năm 1991; HKTT: Thôn MT, xã PM, huyện QV, tỉnh BN; Giới tính: Nữ; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Trần Văn Th, sinh năm 1960 và con bà Phạm Thị N, sinh năm 1963; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là thứ ba; Chồng là Lương Gia Th, sinh năm 1991 và 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/01/2021 đến ngày 13/01/2021, được áp dụng biện pháp ‘‘Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.

2. Lương Văn M1, sinh năm 1986; HKTT: Thôn MT, xã PM, huyện QV, tỉnh BN; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Con ông Lương Gia X, sinh năm 1957 và con bà Hoàng Thị S, sinh năm 1959; Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là thứ ba; Có vợ là Nguyễn Thị N1, sinh năm 1986 và 03 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/01/2021 đến ngày 13/01/2021, được áp dụng biện pháp ‘‘Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.

3. Lương Thị N2, sinh năm 1964; HKTT: Thôn MT, xã PM, huyện QV, tỉnh BN; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10; Con ông Lương Gia X và con bà Đào Thị Kh; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là thứ tư; Có chồng là Trần Văn T, sinh năm 1958 và 02 con, con lớn sinh năm 1983, con nhỏ sinh năm 1985.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/01/2021 đến ngày 13/01/2021, được áp dụng biện pháp ngăn chặn ‘‘Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.

4. Huỳnh Ngọc B, sinh năm 1979; HKTT: Thôn BP, xã NH, huyện QV, tỉnh BN; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Huỳnh Ngọc L (Đã chết) và con bà Dương Thị X1; Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 7; Vợ là Trần Thị Minh Đ, sinh năm 1984 và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/01/2021 đến ngày 13/01/2021, được áp dụng biện pháp ngăn chặn ‘‘Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.

Ngưi liên quan:

1.Ông Trần Văn T, sinh năm 1960 Địa chỉ: Thôn MT, xã PM, huyện QV, tỉnh BN.

2. Chị Đào Thị T1, sinh năm 1980 Địa chỉ: Xóm 6, xã MT, huyện ĐH, tỉnh TB

3. Lương Gia Thiên, sinh năm 1988 Địa chỉ: Thôn MT, xã PM, huyện QV, tỉnh BN

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 00 phút ngày 07/01/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV, tỉnh BN phối hợp với Công an xã PM, huyện QV bắt quả tang Lương Văn M1 đang có hành vi bán số lô, số đề cho Lường Văn M2, sinh năm 2001, HKTT: Thôn Pò Lèn Páôi, xã LB, huyện LB, tỉnh LS và Lý Văn Kh, sinh năm 1999, HKTT: Thôn KL, xã CS, huyện Ý, tỉnh TQ.

Vật chứng thu giữ: Thu giữ của M1 01 cuộn giấy màu trắng để ghi số lô, số đề; 02 tờ cáp đề màu trắng có ghi số lô, số đề bán cho M2 và K2; 01 chiếc bút bi màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng, có số Imei 356554080527852 và số tiền 5.290.000 đồng.

Qua đấu tranh tại Cơ quan điều tra, M1 khai nhận bán các số lô, số đề cho khách rồi chuyển cho Trần Thị V, sinh năm 1991, HKTT: Thôn MT, xã PM, huyện QV, tỉnh BN để hưởng chênh lệch.

Hồi 18 giờ 05 phút cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV, tỉnh BN phối hợp với Công an xã PM, huyện QV bắt quả tang Trần Văn T, sinh năm 1960, HKTT: Thôn MT, xã PM, huyện QV, tỉnh BN đang có hành bán số lô, số đề cho Lương Thị PA, sinh năm 2001, HKTT: thôn Bản Cuông, xã Xuân Hòa, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.

Vật chứng T1 giữ: T1 của T 01 tờ cáp nhỏ ghi số lô, số đề bán cho PA; 01 chiếc bút chữ A mực màu đen; 02 ghế nhựa màu đỏ , 01 bàn nhựa màu đỏ, 01 chiếc điện thoại di động Samsung A303 và và số tiền 1.550.000 đồng.

Cùng ngày 07/01/2021, Trần Thị V đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV đầu thú và khai nhận hành vi đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề cho khách thông qua Nguyễn Văn M1, Lương Thị N2 và Trần Văn T.

Ngày 08/01/2021, Lương Thị N2 đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV đầu thú và khai nhận hành vi bán các số lô, số đề cho khách rồi chuyển cho Trần Thị V để hưởng chênh lệch.

Ngày 08/01/2021, Huỳnh Ngọc B đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV đầu thú về hành vi mua số lô của Lương Văn M1 ngày 07/1/2021.

Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV đã điều tra, xác minh làm rõ được như sau:

Khoảng đầu tháng 11/2020, Trần Thị V biết Lương Văn M1, Lương Thị N2 và Trần Văn T bán số lô, số đề tại nhà cho khách nên đã đặt vấn đề bảo M1, N2, T làm thư ký đề cho V để hưởng chênh lệch, các đối tượng đồng ý. Hàng ngày, M1, N2 và T là người trực tiếp bán, T1 tiền và thanh toán tiền với người chơi mua số lô, số đề. Trước khi có kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc thì M1 và N2 sẽ chuyển các số lô, số đề đã bán được trong ngày cho V bằng hình thức qua mạng xã hội zalo, còn T sẽ chuyển trực tiếp bảng cáp đề cho V. Theo thỏa T1ận, nếu khách mua số đề, 3 cửa, lô xiên thì M1, N2 và T sẽ chuyển cho V số tiền 83% trên tổng số tiền khách mua (M1, N2 và T hưởng lợi 17%). Khách mua lô thì phải trả cho M1, N2 và T từ 22.500 đồng - 23.000 đồng/1 điểm lô, sau đó M1, N2 và T sẽ chuyển cho V là 22.000 đồng/1 điểm lô. V sẽ thanh toán tiền bán số lô, số đề và tiền T của khách cho M1, N2 và T vào ngày hôm sau.

Cách thức đánh bạc dưới hình thức chơi số lô, số đề như sau: Nếu người chơi mua số “đề” thì so sánh với hai số cuối của giải đặc biệt nếu trùng với số của người chơi đã mua thì người chơi sẽ được thanh toán số tiền gấp 80 lần số tiền người chơi đã mua số “đề”. Số đề ba càng được lấy theo 03 số cuối của giải đặc biệt. Nếu người chơi trúng thì sẽ được trả số tiền gấp 400 lần tiền mua. Đối với chơi số lô, dựa theo 02 số cuối của tất cả các giải thưởng kết quả mở thưởng xổ số kiến thiết Miền Bắc trong ngày (27 giải) để làm căn cứ. Chơi số lô được tính theo điểm, người chơi trúng số lô được trả số tiền là 80.000 đồng/01 điểm. Đối với chơi lô xiên cũng lấy 2 số cuối của tất cả các giải thưởng kết quả mở thưởng xổ số kiến thiết Miền Bắc trong ngày (27 giải) để làm căn cứ. Lô xiên gồm: lô xiên 2 là có 2 cặp số, lô xiên 3 là có 3 cặp số, lô xiên 4 là có 4 cặp số, người chơi trúng lô xiên 2 được trả số tiền gấp 10 lần số tiền đã mua , trúng lô xiên 3 được trả số tiền gấp 40 lần, trúng lô xiên 4 được trả số tiền gấp 100 lần. Nếu người chơi không trúng số đề, số lô, lô xiên thì bị mất số tiền đã mua số lô, số đề với người nhận.

Hành vi đánh bạc của Huỳnh Ngọc B:

Khoảng 17 giờ 42 phút ngày 07/01/2021, B sử dụng ứng dụng mạng xã hội Zalo với tài khoản có tên “Quán Khách V” nhắn tin đến tài khoản zalo có tên “M1 24” của Lương Văn M1 mua 05 cặp lô xiên ba, mỗi cặp số 500.000 đồng, tương ứng với số tiền là 2.500.000 đồng và 350 điểm lô, tương ứng với số tiền 350 điểm x 23.000 đồng/điểm = 8.050.000 đồng. Tổng số tiền B dùng để đánh bạc với M1 là 10.550.000 đồng. B và M1 chưa thanh toán tiền với nhau.

Hành vi đánh bạc của Lương Văn M1:

Khoảng gần 18h ngày 07/1/2021, Lường Văn M2 đến nhà M1 mua 200 điểm lô, tương ứng với số tiền 200 điểm x 23.000 đồng/ điểm = 4.600.000 đồng. Sau khi mua xong, M1 viết các số lô mà M2 mua của M1 vào một tờ cáp nhỏ đưa cho M2 cầm.

Khi vừa bán số lô cho M2 xong thì có Lý Văn K2 đến nhà M1 mua 30 điểm lô, tương ứng với số tiền 30 x 23.000 đồng/điểm = 690.000 đồng. M1 cũng viết các số lô K2 mua vào một tờ cáp nhỏ đưa cho K2 cầm.

Khoảng 17 giờ 42 phút ngày 07/01/2021, Huỳnh Ngọc B sử dụng ứng dụng mạng xã hội Zalo với tài khoản có tên “Quán Khách V” nhắn tin đến tài khoản zalo có tên “Quá khứ bỏ lại phía sau” của Lương Văn M1 để mua các số lô với tổng số tiền là 10.550.000 đồng. Trong đó: mua 05 cặp lô xiên ba, mỗi cặp số 500.000 đồng, tương ứng với số tiền là 5 x 500.000 đồng = 2.500.000 đồng và 350 điểm lô, tương ứng với số tiền 350 điểm x 23.000 đồng/điểm = 8.050.000 đồng. M1 nhắn tin lại cho B “Ok”.

Ngoài ra, M1 còn bán số lô, số đề cho một số người khác (M1 không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) với tổng số tiền là 3.650.000 đồng. Trong đó: 150 điểm lô, tương ứng với số tiền 150 điểm x 23.000 đồng = 3.450.000 đồng và 200.000 đồng tiền đề.

Như vậy, tổng số tiền mà M1 dùng để đánh bạc ngày 07/1/2021 đối với M2, K2, B và các đối tượng khác là: 4.600.000 đồng + 690.000 đồng + 10.550.000 đồng + 3.650.000 đồng = 19.490.000 đồng.

Sau khi bán số lô, số đề cho khách, M1 tập hợp các số lô, số đề đã bán trong ngày rồi nhắn tin qua mạng xã hội Zalo với tài khoản có tên “Quá khứ bỏ lại phía sau” đến tài khoản Zalo có tên “Hoa Lục Bình” của V với tổng số tiền 19.490.000 đồng. Trong đó 730 điểm lô, tương ứng với số tiền là 730 điểm x 23.000 đồng/ điểm = 16.790.000 đồng, số tiền đề là 2.700.000 đồng.

Theo thỏa T1ận thì tiền lô, đề M1 chuyển cho V là 18.301.000 đồng. Trong đó: tiền đề, lô xiên 3 là 2.700.000 đồng x 83% = 2.241.000 đồng, tiền lô là 730 điểm x 22.000 đồng/1 điểm = 16.060.000 đồng. M1 hưởng lợi số tiền 19.490.000 đồng - 18.301.000 đồng = 1.189.000 đồng. M1 và V chưa thanh toán tiền với nhau.

Hành vi đánh bạc của Lương Thị N2:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 07/01/2021, Lương Thị N2 đang ở nhà thì Đào Thị T1, sinh năm 1980, HKTT: Xóm 6, xã MT, huyện ĐH, tỉnh TB đến mua các số lô, số đề với số tiền là 335.000 đồng. Trong đó: Tiền lô là 10 điểm x 22.500 đồng/điểm = 225.000 đồng; tiền đề là 110.000 đồng. T1 đã thanh toán cho N2 số tiền mua số lô, số đề.

Ngoài ra, N2 còn bán số lô, số đề cho một số người khác (N2 không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) với tổng số tiền là 6.280.000 đồng. Trong đó: Tiền lô là 160 điểm x 22.500 đồng = 3.600.000 đồng và 2. 680.000 đồng tiền đề.

Như vậy, tổng số tiền mà N2 dùng để đánh bạc ngày 07/1/2021 đối với T1 và các đối tượng khác là: 335.000 đồng + 6.280.000 đồng = 6.615.000 đồng.

Sau đó, N2 tập hợp các số lô, số đề đã bán trong ngày rồi nhắn tin qua mạng xã hội Zalo với tài khoản có tên “Hoa M2” đến tài khoản zalo của V có tên “Hoa Lục Bình” với tổng số tiền 6.615.000 đồng. Trong đó: 170 điểm lô, tương ứng với số tiền là 170 điểm x 22.500 đồng/ điểm = 3.825.000 đồng, số tiền đề là 2.790.000 đồng Theo thỏa T1ận thì tiền lô, đề N2 chuyển cho V là 6.055.000 đồng. Trong đó: tiền đề là 2.790.000 đồng x 83% = 2.315.000 đồng, tiền lô là 170 điểm x 22.000 đồng/1 điểm = 3.740.000 đồng. N2 hưởng lợi số tiền 6.615.000 đồng – 6.055.000 đồng = 560.000 đồng. N2 và V chưa thanh toán tiền với nhau.

Hành vi tổ chức đánh bạc của Trần Thị V:

Ngày 07/1/2021, M1 nhắn tin qua ứng dụng mạng xã hội Zalo chuyển các số lô, số đề đã bán cho người chơi từ tài khoản của M1 có tên“Quá Khứ Bỏ Lại Phía Sau” gửi đến tài khoản zalo của V có tên Zalo “Hoa Lục Bình” với tổng số tiền là:

19.490.000 đồng. Trong đó 730 điểm lô, tương ứng với số tiền là 730 điểm x 23.000 đồng/ điểm = 16.790.000 đồng, số tiền đề là 2.700.000 đồng Tổng số tiền V dùng đánh bạc với M1 là 19.490.000 đồng.

Ngày 07/1/2021, N2 nhắn tin qua ứng dụng mạng xã hội Zalo chuyển các số lô, số đề đã bán cho người chơi từ tài khoản của N2 có tên “Hoa M2” đến tài khoản zalo của V có tên “Hoa Lục Bình” với tổng số tiền 6.615.000 đồng. Trong đó: 170 điểm lô, tương ứng với số tiền là 170 điểm x 22.500 đồng/ điểm = 3.825.000 đồng, số tiền đề là 2.790.000 đồng. Tổng số tiền V dùng đánh bạc với N2 là 6.615.000 đồng.

Khoảng 17h ngày 07/1/2021, T đến nhà V mua 65 điểm lô, tương ứng với số tiền 1.580.000 đồng (60 điểm x 22.500 đồng/ điểm = 1.350.000 đồng + 5 điểm x 23.000 đồng/điểm = 115.000 đồng), tiền đề là 590.000 đồng. Tổng số tiền V dùng đánh bạc với T là 2.055.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền V tổ chức đánh bạc với M1, N2 và T ngày 07/1/2021 là 19.490.000 đồng + 6.615.000 đồng + 2.055.000 đồng = 28.160.000 đồng. V chưa thanh toán tiền với M1 và N2. T đã thanh toán cho V số tiền 165.000 đồng, còn số tiền 1.890.000 đồng chưa thanh toán.

Thời điểm lực lượng Công an bắt quả tang chưa có kết quả mở thưởng xố số kiến thiết Miền Bắc nên số tiền các đối tượng đánh bạc chính là số tiền các đối tượng mua bán số lô, số đề.

* Về T1 giữ đồ vật, tài liệu:

Quá trình điều tra, các đối tượng đến đầu thú và tự nguyện giao nộp tài sản gồm:

- Trần Văn T giao nộp: 01 điện thoại di động Samsung A303 màu đen.

- Trần Thị V giao nộp: 01 tờ cáp nhỏ ghi số lô, số đề V bán cho T; số tiền 165.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu xanh vàng, Imei 860577048442137.

- Lương Văn M1 giao nộp số tiền 3.650.000 đồng; Lương Thị N2 giao nộp số tiền 6.280.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone 7 plus; Huỳnh Ngọc B giao nộp số tiền 10.550.000 đồng; Đào Thị T1 giao nộp số tiền 335.000 đồng; Lương Gia Thiên nộp số tiền 340.000đ.

Đối với những vật chứng, tiền và điện thoại nêu trên, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV sẽ ra Quyết định chuyển đến Chị cục thi hành án dân sự huyện QV để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, các bị cáo Trần Thị V, Lương Văn M1, Lương Thị N2 và Huỳnh Ngọc B đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Với nội dung trên, tại Cáo trạng số: 47/CT-VKSQV ngày 28/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện QV, tỉnh BN đã truy tố bị cáo Trần Thị V về tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Lương Văn M1, Lương Thị N2 và Huỳnh Ngọc B về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện QV thực hành quyền công tố tại phiên toà công bố bản luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Thị V về tội “Tổ chức đánh bạc”. Các bị cáo Lương Văn M1, Lương Thị N2 và Huỳnh Ngọc B phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Thị V từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng. Phạt bổ sung bị cáo từ 20.000.000đ đến 23.000.000đ sung ngân sách nhà nước.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Lương Thị N2 từ 7 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 14 đến 20 tháng. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Lương Văn M1, Huỳnh Ngọc B mỗi bị cáo từ 25.000.000đ đến 30.000.000đ.

Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch T1 sung ngân sách nhà nước số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 28.160.000 đồng (Hai mươi tám triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tịch T1 sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại Samsung A303 T1 của Trần Văn T; 01 điện thoại di động Iphone 7 màu hồng đã qua sử dụng của Lương Văn M1; 01 điện thoại Iphone 7 plus của Lương Thị N2; 01 điện thoại OPPO màu xanh T1 của Trần Thị V.

Tịch T1 tiêu hủy: 02 ghế nhựa màu đỏ, 01 bàn nhựa màu đỏ; 01 bút chữ A mực màu đen, 01 bút bi màu xanh.

Lưu giữ trong hồ sơ: 01 tờ cáp nhỏ ghi số lô, số đề của T ghi cho PA; 01 cuộn giấy màu trắng; 02 tờ giấy màu trắng ghi các con số lô, đề T1 của M1; 01 bảng cáp ghi số lô, số đề T1 của V.

Các bị cáo nhận tội không tham gia tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã T1 giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 07/01/2021, Lương Văn M1 có hành vi bán số lô, số đề cho Lường Văn M2, Lý Văn K2, Huỳnh Ngọc B và một số người không quen biết với tổng số tiền 19.490.000đ; Lương Thị N2 có hành vi bán số lô, số đề cho Đào Thị T1 và những người chơi không quen biết với tổng số tiền là 6.615.000đ; Trần Văn T có hành vi bán số lô, số đề cho người chơi với tổng số tiền là 2.055.000đ. Sau đó, M1, N2 đã chuyển bảng cáp qua tin nhắn zalo và T đã chuyển trực tiếp cáp ghi số lô, số đề cho V.

Tổng số tiền trên bảng cáp mua số lô, đề mà M1, N2 và T chuyển cho V là 28.160.000đ. Bảng cáp lô này V giữ lại để trực tiếp đánh bạc với những người chơi. Do hành vi của các bị cáo bị phát hiện trước khi có kết quả sổ số kiến thiết Miền Bắc, chưa tính được, T1a nên các bị cáo chưa T1 lời bất chính từ việc đánh bạc. Quá trình điều tra xác định được T bán số lô, số đề cho Lương Thị PA là 1.550.000đ, Nguyễn Văn Thiện là 50.000đ, Hà Đức Hùng là 115.000đ và Lương Gia Thiên 340.000đ. M1 bán số lô, số đề cho Lường Văn M2 là 4.600.000đ, Lý Văn K2 là 690.000đ, Huỳnh Ngọc B là 10.550.000đ. Ngoài ra, M1 còn bán cho một số người khác với số tiền 3.650.000đ. N2 bán số lô số đề cho Đào Thị T1 với số tiền 335.000đ và bán cho những đối tượng khác chưa xác định được với tổng số tiền 6.280.000đ. Xác định bị cáo M1, N2 và người liên quan là T trong cùng buổi chiều ngày 07/01/2021 đã cùng chuyển cáp đề cho V với tổng số tiền là 28.160.000đ. Do đó, bị cáo V đã phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự. Các bị cáo M1, N2 và B phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng với mục đích T1 lời bất chính, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Các bị cáo nhận thức được hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc bị pháp luật nghiêm cấm dưới mọi hình thức nhưng chỉ vì mục đích hám lợi, các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hoá tại địa phương, làm gia tăng tệ nạn cờ bạc trong cộng đồng dân cư, mà còn ảnh hưởng xấu đến cuộc sống bình thường của nhiều gia đình khi có con em, người thân đam mê cờ bạc và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo bằng luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét vai trò, tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Đây là vụ án có tính chất độc lập, giản đơn, không có sự câu kết chặt chẽ. Bị cáo V đã có thỏa T1ận với M1, N2 và T làm thư ký đề cho V để hưởng hoa hồng. Do đó, M1, N2 và T là người trực tiếp ghi số lô, số đề của những người chơi, sau đó chuyển bảng lô, đề cho V, V thông qua thư ký đề để trả thưởng cho những người chơi. B không làm thư ký cho V và M1 mà tham gia mua số lô, số đề độc lập với M1. Sau đó, bảng cáp lô, đề của B được M1 chuyển cho V. Do vậy, V có vai trò chính trong vụ án, N2 và M1 giữ vai trò đồng phạm giúp sức cho V tham gia đánh bạc với những người chơi, B tham gia đánh bạc trực tiếp với M1.

Ông Trần Văn T trực tiếp chuyển cáp lô, đề cho V. Tuy nhiên, số tiền trên cáp lô, đề ông T chuyển dưới 5.000.000đ nên chưa đủ lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ông T đã bị Cơ quan CSĐT công an huyện QV xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Lương Văn M1, Lương Thị N2 và Huỳnh Ngọc B có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và T1ộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi phạm tội các bị cáo N2 và B đã ra đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Lương Văn M1 có bố đẻ là ông Lương Gia X được tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Trần Thị V có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội bị cáo đã ra cơ quan Công an đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, bị cáo có bố chồng là ông Lương Gia X được nhà nước tặng thưởng huân huy chương nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và hai tình tiết gảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo V và N2 có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/QN-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Xét các bị cáo có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương, gia đình cũng đủ để giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với các bị cáo Huỳnh Ngọc B và Lương Văn M1 có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và ít nghiêm trọng. Quá trình chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, bị cáo M1 và B đã tự nguyện nộp tiền vào Chi cục thi hành án dân sự huyện QV để khắc phục hậu quả. Do vậy, qua xem xét tính chất, mức độ phạm tội cũng như nhân thân của các bị cáo, HĐXX nhận thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần buộc các bị cáo chấp hành hình phạt tiền cũng đủ điều kiện răn đe, giúp các bị cáo sửa chữa sai lầm trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Để nâng cao việc giáo dục, cần thiết buộc bị cáo V phải chấp hành hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 3 Điều 322 Bộ luật hình sự. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000đ sung ngân sách nhà nước.

Bị cáo N2 do điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Vật chứng của vụ án:

Đối với số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc được xác định B chưa chuyển cho M1, T mới đưa cho V 165.000đ. Số tiền bán số lô, số đề cả M1, N2 và T đều chưa chuyển cho V nên cần buộc các bị cáo nộp sung ngân sách nhà nước. Cụ thể: M1 nộp 3.650.000đ; B nộp 10.550.000đ; N2 nộp 6.280.000đ; V nộp 165.000đ. Tại cơ quan điều tra, các bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền trên.

Ngoài ra, đối với số tiền 335.000đ và số tiền 340.000đ mà chị T1 và anh Thiên tự nguyện giao nộp. Xác nhận đây là số tiền chị T1 và anh Thiên sử dụng để mua số lô, số đề nên tịch T1 sung ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền cơ quan điều tra T1 giữ khi bắt quả tang của ông Trần Văn T, Lương Văn M1 là tiền bán số lô, số đề nên tịch T1 sung ngân sách nhà nước.

Đối với 04 chiếc điện thoại T1 giữ của các bị cáo, gồm: 01 điện thoại Samsung A303 T1 của Trần Văn T; 01 điện thoại di động Iphone 7 màu hồng đã qua sử dụng của Lương Văn M1; 01 điện thoại Iphone 7 plus của Lương Thị N2;

01 điện thoại OPPO màu xanh T1 của Trần Thị V. Đây là những chiếc điện thoại các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch T1 sung ngân sách nhà nước.

Đối với 02 ghế nhựa màu đỏ, 01 bàn nhựa màu đỏ; 01 bút chữ A mực màu đen, 01 bút bi màu xanh là các vật dụng các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội có giá trị thấp nên cần tịch T1 tiêu hủy.

01 tờ cáp nhỏ ghi số lô, số đề của T ghi cho PA; 01 cuộn giấy màu trắng;

02 tờ giấy màu trắng ghi các con số lô, đề T1 của M1; 01 bảng cáp ghi số lô, số đề T1 của V là các tang vật của vụ án cần được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Đối với hành vi đánh bạc bằng hình thức mua số lô, số đề của ông Trần Văn T, Lương Thị PA, Đào Thị T1, Lường Văn M2, Lý Văn K2, Lương Gia Thiên, Hà Đức Hùng và Nguyễn Văn Thiêm. Các đối tượng không có tiền án, tiền sự về các tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”, số tiền các đối tượng sử dụng để “Đánh bạc” ngày 07/01/2021 là dưới 5.000.000 đồng nên không đủ lượng để khởi tố về tội “Đánh bạc”. Công an huyện QV đã xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng trên là đúng quy định.

Đối với các đối tượng khác đã đánh bạc với Lương Văn M1 và Lương Thị N2 bằng hình thức mua số lô, số đề ngày 07/1/2021, M1 và N2 không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu. Cơ quan CSĐT Công an huyện QV tiếp tục xác minh, làm rõ và sẽ xem xét xử lý sau.

Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị V phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Các bị cáo: Lương Văn M1, Lương Thị N2 và Huỳnh Ngọc B phạm tội "Đánh bạc".

- Áp dụng: Điểm c khoản 1,3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Thị V 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000đ sung ngân sách nhà nước.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Lương Thị N2 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Trần Thị V, Lương Thị N2 cho UBND xã PM, huyện QV, tỉnh BN giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Các bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Lương Văn M1 25.000.000đ sung ngân sách nhà nước. Huỳnh Ngọc B 20.000.000đ sung ngân sách nhà nước.

Xác nhận Trần Thị V đã nộp số tiền 25.200.000đ theo biên lai T1 số AA/2014/0006111 ngày 18.5.2021, Lương Văn M1 nộp 10.200.000đ tại biên lai T1 số AA/2014/0006115 ngày 20/5/2021, Huỳnh Ngọc B nộp 20.200.000đ tại biên lai số AA/2014/0006113 ngày 18/5/2021 tại chi cục thi hành án huyện QV. Số tiền này được khấu trừ vào số tiền các bị cáo phải chấp hành. Trả lại bị cáo Trần Thị V 5.000.000đ theo biên lai T1 số AA/2014/0006111 ngày 18.5.2021 của Chi cục thi hành án huyện QV.

Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch T1 sung ngân sách nhà nước số tiền 28.160.000 đồng (Hai mươi tám triệu một trăm sáu mươi triệu đồng); 01 điện thoại Samsung A303 T1 của Trần Văn T; 01 điện thoại di động Iphone 7 màu hồng đã qua sử dụng của Lương Văn M1; 01 điện thoại Iphone 7 plus của Lương Thị N2; 01 điện thoại OPPO màu xanh T1 của Trần Thị V.

Tịch T1 tiêu hủy: 02 ghế nhựa màu đỏ, 01 bàn nhựa màu đỏ; 01 bút chữ A mực màu đen, 01 bút bi màu xanh.

Lưu giữ trong hồ sơ: 01 tờ cáp nhỏ ghi số lô, số đề của T ghi cho PA; 01 cuộn giấy màu trắng; 02 tờ giấy màu trắng ghi các con số lô, đề T1 của M1; 01 bảng cáp ghi số lô, số đề T1 của V.

(Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 05/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh BN với Chi cục thi hành án dân sự huyện QV, tỉnh BN).

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo Trần Thị V, Lương Văn M1, Lương Thị N2 và Huỳnh Ngọc B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm, các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

910
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 80/2021/HSST

Số hiệu:80/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;