Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ – THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 76/2022/HS-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 57/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Đặng Bùi L; Tên gọi khác: Phan Văn D, sinh năm 1968 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi đăng ký HKTT: Tổ X, phường T, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ học vấn: 05/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con Đặng Bùi H (Sinh năm 1933) đã chết và bà Trần Thị M (Sinh năm 1935). Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai. Bị cáo có 02 người con; lớn nhất sinh năm 1989; nhỏ nhất sinh năm: 1992.

- Tiền án:

+ Ngày 17/7/1997, bị Tòa Phúc Thẩm TAND Tối cao tại TP Đà Nẵng xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản XHCN” (trộm sắt trị giá 2.380.000 đồng) theo điểm a, đ khoản 2 Điều 132 BLHS 1985 tại Bản án 332/HSPT. (L chưa bồi thường dân sự).

+ Ngày 08/12/2008, L bị TAND quận Sơn Trà xét xử sơ thẩm; ngày 27/2/2009, bị TAND TP Đà Nẵng xét xử phúc thẩm xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (giá trị trộm cắp 24.837.414 đồng) theo các điểm a, b, c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 tại Bản án 59/2008/HSST và 37/2009/HSPT. Qua xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà thì Đặng Bùi L đã được miễn nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí HSST, HSPT; tuy nhiên đối với phần bồi thường dân sự cho người bị hại và người liên quan theo Bản án số 59/2008/HSST của TAND quận Sơn Trà thì do người bị hại không có đơn thi hành án nên cơ quan thi hành án không tổ chức thi hành đối với Đặng Bùi L. (L chưa được xóa án tích theo Công văn số 64 ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao).

- Tiền sự: Ngày 06/06/2021, L bị Công an phường H, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo QĐ số 33/QĐ-XPHC bằng hình thức phạt 1.500.000 đồng.

- Nhân thân:

+ Ngày 11/11/1991, L bị TAND TP Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” theo khoản 1 Điều 155 BLHS 1985 tại Bản án 143/HSST.

+ Ngày 30/6/2004, L bị TAND TP Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS 1999 tại Bản án 60/HSPT.

+ Ngày 07/6/2005, L bị TAND quận Hải Châu, TP Đà Nẵng xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS 1999 tại Bản án 40/2005/HSST.

+ Ngày 16/11/2013, L bị TAND quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 138 BLHS tại Bản án 78/2013/HSST. Tại bản án này ghi nhận Đặng Bùi L còn 04 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giam ngày 31/5/2022 trong 01 vụ án khác; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Công ty TNHH xây dựng H; trụ sở: HX đường N, TP Đà Nẵng. Đại diện người bị hại: Anh Nguyễn Đức N, sinh năm: 1985; HKTT: Khu phố Y, phường Z, thị xã Đ, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Duy T, sinh năm: 1977; HKTT: Thôn P, xã T, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03h30’ ngày 12/01/2022, Đặng Bùi L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Attila BKS 43C1-650.00 đi đến các công trình xây dựng trên tuyến đường N, TP Đà Nẵng để tìm sơ hở trộm cắp tài sản. Khi đi ngang qua công trình thi công hố thu gom nước thải đối diện nhà số 1355 Nguyễn Tất T, phường T, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng do Công ty TNHH xây dựng H chịu trách nhiệm thi công thì L phát hiện bên trong công trình không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản tại công trình. Sau đó, L dựng xe 43C1-650.00 ở ven đường rồi đi bộ vào trong công trình lấy trộm 10 (mười) thanh sắt phi 18, mỗi thanh dài 1,95 mét, có gập vuông góc một đầu đem ra ngoài công trình định tẩu thoát thì bị anh Nguyễn Đức N, là cán bộ kỹ thuật của công trình) phát hiện truy hô, L liền vứt bỏ 10 (mười) thanh sắt mới trộm cắp được cùng xe mô tô 43C1-650.00 tại hiện trường rồi bỏ trốn. Đến 03h45’cùng ngày, Công an phường T tiến hành tuần tra phát hiện L đang đi bộ trên đường Y, phường T có biểu hiện nghi vấn nên triệu tập về trụ sở Công an phường làm việc. Tại Cơ quan Công an, Đặng Bùi L khai nhận hành vi trộm cắp tài sản nêu trên.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số ngày 25/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xác định: 10 (mười) thanh sắt, phi 18, mỗi cây dài 1.95m có tổng trị giá là 748.080 đồng (Bảy trăm bốn mươi tám nghìn không trăm tám mươi đồng).

* Tại Cáo trạng số: 62/CT-VKS ngày 14 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Đặng Bùi L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a, b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Bùi L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo a, b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Bùi L từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng:

+ 10 (mười) thanh sắt phi 18, mỗi thanh dài 1,95 mét, có gập vuông góc một đầu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại cho anh Nguyễn Đức N là người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH xây dựng H là có cơ sở.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila, BKS 43C1-650.00, số khung H125HD8D038195; số máy VMM9BFD038195 do ông Lê Mạnh T đứng tên chủ sở hữu; năm 2019, ông T bán chiếc xe trên cho ông Trần Văn N; sau đó, ông N bán xe này lại cho Đặng Bùi L. L sử dụng làm phương tiện phạm tội vào ngày 12/01/2022 nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước.

- Về dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH xây dựng H là anh Nguyễn Đức N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Tại phiên tòa, quá trình xét hỏi bị cáo L thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng với nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất để bị cáo được sớm trở về với gia đình, làm ăn lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về xác định tội phạm:

[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Bùi L tại phiên tòa đúng như bản cáo trạng đã truy tố; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cở sở xác định:

Khoảng 03h30’ ngày 12/01/2022, tại công trình thi công hố thu gom nước thải đối diện nhà số 1355 Nguyễn Tất T, phường T, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng do Công ty TNHH xây dựng H chịu trách nhiệm thi công; Đặng Bùi L đã có hành vi trộm cắp 10 (mười) thanh sắt phi 18, mỗi thanh dài 1,95 mét, có gập vuông góc một đầu của Công ty H có trị giá 748.080đ (Bảy trăm bốn mươi tám nghìn không trăm tám mươi đồng). Hành vi của bị cáo L đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng số 62/CT- VKS ngày 14 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo L đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an xã hội tại địa phương nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[2.3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo thì thấy:

Bị cáo L có 02 tiền án, 01 tiền sự đều về hành vi “Trộm cắp tài sản”; nhân thân rất xấu. Tuy nhiên, tài sản trộm được có giá trị không lớn, bị cáo chưa gây thiệt hại gì, đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết được quy định tại điểm h, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc khi lượng hình.

[3] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 10 (mười) thanh sắt phi 18, mỗi thanh dài 1,95 mét, có gập vuông góc một đầu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại cho anh Nguyễn Đức N là người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH xây dựng H là có cơ sở.

+ Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila, BKS 43C1-650.00, số khung H125HD8D038195; số máy VMM9BFD038195 do ông Lê Mạnh T đứng tên chủ sở hữu; năm 2019, ông T bán chiếc xe trên cho ông Trần Văn N; sau đó, ông N bán xe này lại cho Đặng Bùi L. Đặng Bùi L sử dụng làm phương tiện phạm tội vào ngày 12/01/2022 nên Hội đồng xét xử tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước.

[4] Về dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH xây dựng H là anh Nguyễn Đức N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.

[5] Về án phí: Bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Theo những nhận định như trên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Bùi L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Bùi L 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila, BKS 43C1-650.00, số khung H125HD8D038195; số máy VMM9BFD038195 của Đặng Bùi L.

(Toàn bộ vật chứng trên thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21.7.2022, hiện Chi Cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê đang quản lý).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Đặng Bùi L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về thời hạn kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 22.7.2022. Riêng người bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2022/HS-ST

Số hiệu:76/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;