Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH – TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 61/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 08 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2022/TLST- HS ngày 05 tháng 08 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 08 năm 2022, đối với bị cáo:

Hoàng Văn T, sinh năm: 1985; Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 4/12; Nghề nghiệp: Không; Bố đẻ: Hoàng Xuân T, sinh năm: 1950; Mẹ đẻ: Đinh Thị L, sinh năm: 1951; Cùng cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định; Bị cáo là con một trong gia đình; Vợ: Phạm Thị H, sinh năm: 1984; Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định; Có 03 con: Con lớn sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2011; Nhân thân: Ngày 20/5/2013 UBND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định áp dụng biện pháp xủ lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Ngày 27/11/2018 TAND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xử phạt 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến ngày 07/6/2019 chấp hành xong hình phạt; Ngày 07/02/2020, Công an phường thống nhất, thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng, đã chấp hành xong; Tiền án: Ngày 17/9/2020, Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 30/9/2021 chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 17/6/2022 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Trợ giúp viên bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn T: Bà Đặng Thị Anh Thư - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nam Định (có mặt).

Bị hại: Anh Hoàng Văn K, sinh năm 1998; Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 19/3/2022, T đi bộ một mình từ nhà theo đường dong xóm của thôn mục đích quan sát phát hiện thấy nhà dân nào sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi qua khu vực nhà bà Lê Thị H. T đứng ở ngoài đường dong giáp cổng quan sát vào phía trong nhà bà H. Thấy bà H ở nhà một mình, đồng thời lúc này bà H đi vào trong nhà lấy chiếc điện thoại nhãn hiệu Redme Q5 Pro màu trắng (là điện thoại của anh Hoàng Văn K sinh năm 1998 con trai bà H) đi ra đứng ngoài hiên trước cửa nhà nghe điện thoại. Sau khi nghe xong bà H cầm điện thoại để trên giường trong phòng ngủ của anh K rồi đi ra sân giếng giáp cầu ao phía trước nhà để rửa rau nấu cơm. T nảy sinh ý định đột nhập vào nhà bà H lấy chiếc điện thoại. T đứng ngoài quan sát thấy bà H ngồi quay mặt ra phía ao. T lén lút đi qua cổng vào trong sân, rồi đi vào trong phòng khách nhưng không thấy chiếc điện thoại nào rồi đi vào phòng ngủ của anh K tìm kiếm, nhìn thấy chiếc điện thoại nhãn hiệu Redme Q5 Pro màu trắng của anh K để trên giường. T cầm chiếc điện thoại cất giấu vào trong túi quần mình đang mặc rồi lẻn đi ra ngoài cổng về nhà mình cất giấu. Đến khoảng hơn 19 giờ cùng ngày, anh K về nhà kiểm tra thì không thấy chiếc điện thoại nhãn hiệu Redme Q5 Pro màu trắng của mình đâu. Nghi bị kẻ gian lấy trộm nên đã mở hệ thống Camera an ninh của gia đình để xem lại kiểm tra. Sau khi kiểm tra phát hiện tại thời điểm 18 giờ 56 phút 53 giây cùng ngày thấy một người đàn ông lén lút đi men theo tường bên hông nhà lẻn vào trong nhà một lúc sau đi nhanh ra phía ngoài cổng. Anh K nghi ngờ đối tượng trộm cắp là Hoàng Văn T và đến Công an xã Trực Đại để trình báo. Trên đường về nhà, anh K gặp T và hỏi thì T thừa nhận việc lấy trộm điện thoại của anh K. T xin lỗi và hứa sẽ đem trả lại chiếc điện thoại cho anh K. Khoảng 22 giờ cùng ngày T mang chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redme Q5 Pro màu trắng đến nhà anh K để trả lại. T gọi anh K và bà H ra ngoài sân nói: “Nãy cháu trót dại cháu lấy chiếc điện thoại của thím, cháu xin lỗi thím, xin lỗi em” rồi T đưa cho bà H nhưng bà H không cầm nên T bỏ chiếc điện thoại trên mặt tường bao trước cửa cạnh nhà bà H rồi đi về nhà.

* Vật chứng thu giữ: 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Redme Q5 Pro vỏ màu trắng, đã qua sử dụng.

Bản kết luận định giá tài sản số 04 ngày 05/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trực Ninh, xác định: 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Redme Q5 Pro vỏ màu trắng, đã qua sử dụng trị giá là 1.700.000 đồng.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Redme Q5 Pro vỏ màu trắng, đã qua sử dụng qua xác minh là tài sản của anh Hoàng Văn K nên CQĐT Công an huyện đã trả lại cho anh K.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản anh Hoàng Văn K không có yêu cầu gì khác về mặt dân sự.

Tại Cơ quan điều tra Hoàng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Cáo trạng số 63/KSĐT ngày 04 tháng 08 năm 2022, VKSND huyện Trực Ninh đã truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên toà:

- Bị cáo Hoàng Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Trợ giúp viên bào chữa cho bị cáo - Bà Đặng Thị Anh Thư có ý kiến:

Về tội danh: Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản, theo điểm b Khoản 1 Điều 173 BLHS là đúng người, đúng tội.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tài sản đã tự nguyện trả lại cho bị hại; Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Đề nghị HĐXX; xử phạt bị cáo Hoàng Văn T với mức án thấp nhất của Viện kiểm sát đã đề nghị.

- Đại diện VKSND huyện Trực Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng và đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng điểm b Khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS; đề nghị HĐXX: xử phạt bị cáo Hoàng Văn T từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Hoàng Văn T, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Trực Ninh, Điều tra viên, VKSND huyện Trực Ninh, KSV trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như; Biên bản ghi lời khai của người bị hại; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng; Biên bản thu giữ vật chứng; Kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 19/3/2022 Hoàng Văn T đã có hành vi lợi dụng sơ hở lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Redme Q5 Pro vỏ màu trắng, đã qua sử dụng của anh Hoàng Văn K để ở trong phòng ngủ có giá trị là 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng). Tuy tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2 triệu đồng nhưng Hoàng Văn T có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nên Hoàng Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS như Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh đã truy tố đối với bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lấy tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đã nhiều lần vi phạm pháp luật, có tiền án: Ngày 17/09/2020 Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và đề nghị của Viện kiểm sát. HĐXX xét thấy: Về hình phạt; Cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: HĐXX xét thấy, không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm Dân sự: Anh Hoàng Văn K đã nhận lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redme Q5 Pro vỏ màu trắng, không yêu cầu T phải bồi thường thêm, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[9] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 06 năm 2022.

2. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Hoàng Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày; Bị cáo có quyền kháng cáo kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sư.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 61/2022/HS-ST

Số hiệu:61/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;