Bản án về tội trộm cắp tài sản số 57/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 57/2022/HS-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 7 năm 2022 tại khu vực cầu CSL, tổ A, khóm TH, phường MT, thành phố LX, tỉnh An Giang. Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2022 đối với - Bị cáo:

1. Đỗ Bất D, sinh năm 1997 tại thành phố LX, tỉnh An Giang; nơi cư trú: khóm ĐT, phường MP, thành phố LX, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn:

04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Minh H1, sinh năm 1972 và bà Trần Hồng T1, sinh năm 1973; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Ngày 21 tháng 01 năm 2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 13 tháng 7 năm 2021 chấp hành xong hình phạt tù. Tiền sự: không; nhân thân: từ nhỏ đến lớn sống chung với cha mẹ, đi học hết lớp 04 thì nghỉ học. Ngày 27 tháng 4 năm 2010, bị Ủy ban nhân dân thành phố LX ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, thời hạn 24 tháng, đến ngày 06 tháng 5 năm 2012 chấp hành xong quyết định. Ngày 21 tháng 8 năm 2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong bản án. Ngày 05 tháng 02 năm 2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong bản án.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 15 tháng 4 năm 2022. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Nguyễn Văn H2, sinh năm 2003 tại thành phố LX, tỉnh An Giang; nơi cư trú: khóm B, phường ML, thành phố LX, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Hoàng C1, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Ngọc Y1, sinh năm 1964; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: chưa; nhân thân: từ nhỏ đến lớn sống chung với cha mẹ, đi học hết lớp 02 thì nghỉ học.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 23 tháng 3 năm 2022. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Công ty cổ phần dược phẩm P. Người đại diện theo uỷ quyền bà Trần Thị Kim Y2, sinh năm 1996.

Địa chỉ: C/D đường HHH, khóm TK, phường MH, thành phố LX, tỉnh An Giang. (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Ngọc Y1, sinh năm 1964.

Địa chỉ: đường TNH, khóm B, phường ML, thành phố LX, tỉnh An Giang. (Có mặt) 2. Nguyễn Phước T2, sinh năm 2001.

Địa chỉ: E/F đường TP, khóm BK, phường BK, thành phố LX, tỉnh An Giang.

(Vắng mặt) 3. Dương Minh H2, sinh năm 1980.

Địa chỉ: G/H đường TNH, khóm ĐT, phường MP, thành phố LX, tỉnh An Giang. (Vắng mặt) 4. Nguyễn Thành C2, sinh ngày 01 tháng 01 năm 2009.

Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Thành C2: bà Nguyễn Thị M Địa chỉ: M/N, khóm ĐT, phường MP, thành phố LX, An Giang. (Vắng mặt) - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyễn Thành C2: Ông Hà Quang V – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh An Giang. (Có mặt) Địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh An Giang, số V LTK, phường MB, thành phố LX, tỉnh An Giang.

- Người làm chứng: Đinh Phạm Lan V1, sinh năm 1997. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có tiền tiêu xài, khoảng 22 giờ ngày 22 tháng 3 năm 2022, Nguyễn Thành C2 (sinh ngày 01 tháng 01 năm 2009) rủ Nguyễn Văn H2 và Đỗ Bất D đi tìm tài sản lấy trộm thì cả hai đồng ý. Thực hiện ý định này, C2 cầm theo mỏ lết cùng H2 và D đi bộ đến ngã tư đường LTT - HV thuộc khóm X, phường ML, thành phố LX thấy cửa hàng thuốc tây P thuộc Công ty cổ phần dược phẩm P đóng cửa nên dừng lại. Tại đây, H2 và D đứng bên ngoài canh đường để C2 dùng mỏ lết bẻ khóa cửa vào trong cửa hàng mở két sắt lấy trộm 8.660.000 đồng. H2, C2, D chia nhau số tiêu xài. Đến 05 giờ 30 phút ngày 23 tháng 3 năm 2022, chị Đinh Phạm Lan V1 là nhân viên bán hàng đến cửa hàng mở cửa thì phát hiện cửa ngoài bị cắt ổ khoá và bị mất trộm số tiền 8.660.000 đồng để trong két sắt nên báo cho chị Trần Thị Kim Y2 là cửa hàng trưởng biết và đến Công an phường ML trình báo.

Hành vi C2 dùng mỏ lết bẻ khóa cửa và đi vào bên trong cửa hàng thuốc tây P được camera của cửa hàng ghi lại, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên đã thu giữa đoạn video này (bút lục số 19).

Ngày 23 tháng 3 năm 2022, ngày 15 tháng 4 năm 2022 H2 và D đến Công an phường ML và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố LX đầu thú.

Vật chứng và tài sản thu giữ gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng; số tiền 1.700.000 đồng; 01 đĩa CD nhãn hiệu DVD bên trong có chứa 01 tập tin video ghi lại hình ảnh C2 cạy cửa vào cửa hàng thuốc tây P.

Nguyễn Thành C2 trình bày phù hợp với nội dụng vụ án đã nêu trên. C2 sử dụng số tiền trộm cắp mua điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng với giá 1.500.000 đồng của người không rõ họ tên địa chỉ. C2 đã giao nộp điện thoại này cho Cơ quan điều tra.

Bà Nguyễn Ngọc Y1 (mẹ ruột của bị cáo H2), anh Nguyễn Phước T2 và Dương Minh H2 trình bày: Ngày 23 tháng 3 năm 2022, H2 cho bà Y1 số tiền 150.000 đồng nhưng không biết do H2 phạm tội mà có. Ngày 23 tháng 3 năm 2022 H2 cho T2 số tiền 1.000.000 đồng, H2 số tiền 200.000 đồng nhưng không biết tiền do H2 phạm tội mà có. Y1, T2 và H2 đã giao nộp số tiền này cho Cơ quan điều tra.

Tại cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 24/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố các bị cáo Nguyễn Văn H2, Đỗ Bất D về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Nguyễn Thành C2 tại thời điểm phạm tội là người dưới 14 tuổi nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự:

Đối với Đỗ Bất D: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Đối với Nguyễn Văn H2: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo H2 từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị:

Đối với số tiền 1.700.000 đồng do bị cáo H2 giao nộp, đây là số tiền do phạm tội mà có, đề nghị trả lại cho bị hại (khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự).

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng do đối tượng Nguyễn Thành C2 giao nộp, điện thoại này C2 mua bằng tiền do phạm tội mà có, đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước (điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự).

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 589 Bộ luật dân sự. Tại phiên toà đại diện bị hại đề nghị được nhận lại 1.700.000 đồng mà các bị cáo đã giao nộp. Số tiền còn lại chỉ yêu cầu bị cáo D và H2 mỗi bị cáo bồi thường 2.500.000 đồng, không yêu cầu C2 bồi thường. Yêu cầu của đại diện bị hại được hai bị cáo chấp nhận, nên đề nghị HĐXX ghi nhận sự tự nguyện thoả thuận này.

Trợ giúp viên pháp lý trình bày: C2 chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên thống nhất việc không xem xét trách nhiệm hình sự như Viện kiểm sát đề nghị. Tại phiên tòa đại diện bị hại không yêu cầu C2 bồi thường, yêu cầu hai bị cáo D, H2 mỗi bị cáo bồi thường 2.500.000 đồng, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Các bị cáo nói lời sau cùng đã ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phù hợp quy định pháp luật.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, tang vật thu giữ và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ xác định: Khoảng 22 giờ, ngày 22 tháng 3 năm 2022 các bị cáo Đỗ Bất D và Nguyễn Văn H2 cùng với Nguyễn Thành C2 thực hiện hành vi bẻ khóa vào cửa hàng thuốc tây P thuộc Công ty cổ phần dược phẩm P, sau đó mở két sắt lấy trộm số tiền 8.660.000 đồng. Vì vậy, các bị cáo Nguyễn Văn H2 và Đỗ Bất D phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Đối với Nguyễn Thành C2 tại thời điểm phạm tội là người dưới 14 tuổi, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo D, H2 là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, tổng giá trị chiếm đoạt là 8.660.000 đồng . Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi:

Các bị cáo là người trưởng thành có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, lẽ ra bị cáo phải tìm kiếm cho mình một công việc ổn định có thu nhập chính đáng, sống có ích cho gia đình và xã hội. Các bị cáo biết rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng chỉ vì lười lao động, muốn có tiền tiêu xài một cách nhanh chóng mà không phải công sức, bị cáo D có nhân thân xấu vào năm 2010 đã bị đưa vào trường giáo dưỡng. Đồng thời vào các năm 2014, 2016, 2021 đã 03 lần bị Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xử về tội trộm cắp tài sản nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trộm, mặc dù được xóa án tích nhưng thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt:

Bị cáo Đỗ Bất D bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Văn H2 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo D, H2 được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng H2 được áp dụng thêm tình tiết: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về quyết định hình phạt: Bị cáo D có nhân thân xấu, có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và các tình tiết giảm nhẹ nêu trên. Về vai trò phạm tội bị cáo D là người giữ tiền và là người chia số tiền trộm được. Do đó, mức án của bị cáo D phải cao hơn bị cáo H2.

[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[6] Về án phí sơ thẩm:

Bị cáo phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Đỗ Bất D, Nguyễn Văn H2 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[1]. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Đỗ Bất D 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 15/4/2022

[2]. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn H2 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 23/3/2022

[3]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng .

Trả lại cho công ty Công ty Cổ phần Dược phẩm P số tiền 1.700.000 đồng .

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố LX và Chi cục thi hành án dân sự thành phố LX ngày 06 tháng 6 năm 2022; giấy nộp tiền vào kho bạc Nhà nước số 17180298 của Ngân hàng TMCP ĐTVPTVN chi nhánh An Giang)

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 584, 585, 586, 587, 589 Bộ luật Dân sự.

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa đại diện bị hại và bị cáo D, H2. Bị cáo D có trách nhiệm bồi thường cho Công ty Cổ phần Dược phẩm P số tiền 2.500.000 đồng; H2 có trách nhiệm bồi thường cho Công ty Cổ phần Dược phẩm P số tiền 2.500.000 đồng

[5]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 20016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo liên đới nộp 348.000 đồng (ba trăm, bốn mươi tám nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

[6]. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Bị cáo; Đại diện hợp pháp của bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy đinh tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 57/2022/HS-ST

Số hiệu:57/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;