Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 25/2022/HS-ST ngày 07 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXST-HS ngày 06/4/2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị B, sinh năm 1969 tại Bình Thuận. Nơi cư trú: thôn B, xã P, huyện B, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nữ; con ông Nguyễn Ngọc M (chết) và bà Nguyễn Thị T (chết). Có chồng tên Nguyễn Quốc H và có 02 con.

Tiền án:

- Ngày 08/9/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận xử nhạt 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 08/12/2018.

- Ngày 06/9/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 02/6/2020.

Tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 03/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 16/6/2013.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 11/11/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

2. Nguyễn Quốc H, sinh năm 1969, tại Đắk Lắk. Nơi cư trú: Thôn B, xã P, huyện B, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Quốc B (chết) và bà Trần Thị Tố L. Có vợ tên Nguyễn Thị B và có 02 con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 12/11/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

- Bị hại: Ông Lê Thành D, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Khu phố 6, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 04 giờ 00 phút, ngày 07/11/2021, Nguyễn Thị B nảy sinh ý định đi đến các chợ ở tỉnh Ninh Thuận tìm tài sản sơ hở để trộm cắp nên đã rủ theo chồng là Nguyễn Quốc H chở B đi trộm cắp tài sản, H đồng ý. Nguyễn Quốc H điều khiển xe mô tô biển số 52MA-8128, màu xanh chở B đi từ Bình Thuận ra đến chợ đầu mối Nông sản Phan Rang (thuộc Khu phố 7, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận) để tìm tài sản trộm cắp. Khi đến trước chợ, B nói H ở ngoài chờ, B đi vào chợ, quan sát thấy ông Lê Thành D là tiểu thương bán hàng ở chợ, đang kéo xe hàng để bỏ hàng tại sạp. Thấy ông D đặt 01 túi nylon, màu trắng trong khay nhựa màu đen ở sạp hàng, B nghĩ trong túi nylon có tài sản giá trị, lợi dụng khi anh đi ra phía trước cổng chợ lấy hàng thì B lén lút đi đến sạp hàng của ông D lấy túi nylon nói trên rồi bỏ đi ra khỏi chợ nông sản. Khi ra đến trước cổng chợ, B mở túi nylon ra kiểm tra, phát hiện trong túi có số tiền 350.000 đồng; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO A12, màu xanh; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia 105, màu đen và một số sổ sách giấy tờ. B lấy số tiền 350.000 đồng; 02 điện thoại di động nói trên bỏ vào túi của B mang theo rối vứt túi nylon cùng các đồ vật còn lại ở vách tường trước cổng chợ rồi lên xe mô để H chở về nhà ở thôn B, xã P, huyện B.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 100/KLTS ngày 18/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, kết luận:

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO A12, màu xanh, thời điểm hành vi trộm cắp tài sản xảy ra ngày 07/11/2021 có trị giá 2.200.000 (hai triệu hai trăm nghìn) đồng.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen, thời điểm hành vi trộm cắp tài sản xảy ra ngày 07/11/2021 có trị giá 294.000 (hai trăm chín mươi tư nghìn) đồng.

Quá trình điều tra, ông Lê Thành D trình báo bị mất số tiền 130.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã tiến hình các biện pháp điều tra nhưng không có căn cứ xác định B và H đã chiếm đoạt số tiền trên.

Vật chứng của vụ án:

- Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm tạm giữ đồ vật, tài liệu tại nhà Nguyễn Thị B ngày 11/11/2021 gồm: 01 điện thoại di động hiệu Oppo A12, màu xanh đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen đã qua sử dụng; 01 xe mô tô biển số 52MA – 8128, nhãn hiệu Galaxy - SYM, màu xanh đã qua sử dụng; Số tiền 10.600.000 (mười triệu sáu trăm nghìn) đồng; 01 Giấy nộp tiền ngày 09/11/2021 tại ngân hàng Agri Bank (người nộp tiền Nguyễn Thị B); 01 máy tính bảng hiệu Sam Sung, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A51, màu đen.

- Đối với các sổ sách ghi chép việc mua bán đựng trong túi nylon của ông Lê Thành D, Cơ quan điều tra đã tiến hành tìm kiếm xung quanh khu vực B vứt túi nylon nhưng không tìm được.

- 06 đoạn video ghi lại hành vi trộm cắp tài sản do camera gắn trong chợ nông sản quay lại được, Cơ quan điều tra đã lưu trữ vào 01 đĩa DVD và chuyển cùng hồ sơ vụ án.

Về dân sự: Ông Lê Thành D đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu OPPO A12, màu xanh, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen và số tiền 350.000 đồng.

Quá trình điều tra ông Lê Thành D đề nghị: Đối với số tiền 130.000.000 đồng ông D đồng ý với kết quả điều tra như nội dung trong bản kết luận điều tra. Ông D không đồng ý đối chất với bị cáo B. Về hình sự: Đề nghị xử lý bị cáo Nguyễn Thị B, Nguyễn Quốc H mức hình phạt cao nhất. Về dân sự: Ông D đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận diễn biến sự việc xảy ra như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Bản Cáo trạng số 29/CT-VKSPRTC ngày 03 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Thị B về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Quốc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị B, Nguyễn Quốc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173; Điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị B từ 24 (hai mươi bốn) tháng đến 30 (ba mươi) tháng tù.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc H từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.

- Xử lý vật chứng:

Đề nghị Hội đồng xét xử: Trả lại cho Nguyễn Thị B số tiền 10.250.000 đồng; Giao cho Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ 01 xe mô tô biển số 52MA-8128, số khung RLGMD11MDFD002549, số máy VMVBJAD002549 nhãn hiệu Galaxy – SYM, màu xanh để xác minh, xử lý sau.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo B xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Bị cáo H xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, xét việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử các bị cáo nên căn cứ vào khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[2]. Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Thị B, Nguyễn Quốc H tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 06 giờ 40 phút ngày 07/11/2021, tại sạp hàng của ông Lê Thành D trong chợ đầu mối Nông sản Phan Rang thuộc khu phố X, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận do không có người trong coi nên B đã có hành vi lén lút lấy trộm tiền mặt là 350.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO A12, màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen với tổng giá trị tài sản là 2.844.000 đồng. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Thị B về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Quốc H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Thị B, Nguyễn Quốc H đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Đây là vụ án đồng phạm các bị cáo cùng thống nhất ý chí thực hiện hành vi phạm tội bị cáo B là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, ngoài ra bị cáo còn là người khởi xướng, rủ rê Nguyễn Quốc H (chồng bị cáo B) cùng thực hiện hành vi trộm cắp với tổng giá trị tài sản 2.844.000 đồng. Bị cáo H thực hiện với vai trò giúp sức sau khi được B rủ đi trộm cắp tài sản, H đồng ý và điều khiển xe mô tô 52MA-8128 chở B đến chợ đầu mối Nông sản Phan Rang để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản sau đó chở B về nhà. Hội đồng xét xử xem xét cần xử lý nghiêm các bị cáo bằng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung, cho các bị cáo có thời gian sửa chữa sai lầm, cải tạo thành công dân tốt có ích cho xã hội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo H có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Bị cáo B có nhân thân xấu: Ngày 03/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo có 02 tiền án: Ngày 08/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 06/9/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 02/6/2020. Lần thực hiện hành vi phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thành khẩn khai báo; trị giá tài sản các bị cáo trộm cắp là 2.844.000 đồng có giá trị không lớn nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo B có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử cân nhắc áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Ông Lê Thành D đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu OPPO A12, màu xanh, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen, số tiền 350.000 đồng và không có yêu cầu gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo A12, màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen và số tiền 350.000 đồng, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp ông Lê Thành D là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 52MA – 8128, nhãn hiệu Galaxy - SYM, màu xanh Nguyễn Quốc H dùng để chở B đi thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác định, H mua xe trên từ người khác, không có hợp đồng mua bán. Tra cứu biển số 52MA – 8128, xác định là biển số giả; tra cứu số khung, số máy trùng với xe mô tô biển số 86B1 – 276.80, nhãn hiệu Galaxy – SYM, màu xanh trắng đứng tên chị Nguyễn Thị Thanh H (sinh năm 1988, địa chỉ Khu phố 1, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã gửi yêu cầu Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xác minh thông tin có liên quan đến xe mô tô trên nhưng đến nay chưa có kết quả. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục giao cho Cơ quan điều tra tạm giữ để xác minh, xử lý sau là có căn cứ.

- Cơ quan điều tra tạm giữ trong quá trình khám xét nhà Nguyễn Thị B và thu giữ trong cốp xe mô tô biển số 52MA – 8128 số tiền 10.600.000 đồng. Ngày 06/02/2022 Cơ quan điều tra đã trả cho ông Lê Thành D số tiền 350.000 đồng. Quá trình điều tra xác định số tiền 10.250.000 đồng còn lại không liên quan đến vụ án, do đó Hội đồng xét xử trả lại cho Nguyễn Thị B là có căn cứ.

- Đối với 01 Giấy nộp tiền ngày 09/11/2021 tại ngân hàng Agri Bank (người nộp tiền Nguyễn Thị B); 01 máy tính bảng hiệu Sam Sung, màu đen. Quá trình điều tra xác định, đây là giấy tờ và tài sản của Nguyễn Thị B không liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã trả lại cho Nguyễn Thị B là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung Galaxy A51, màu đen. Quá trình điều tra xác định: Điện thoại trên là vật chứng trong vụ trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, Cơ quan điều tra đã bàn giao cho Công an huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận để điều tra, xác minh làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

- Đối với các sổ sách ghi chép việc mua bán đựng trong túi nylon của ông Lê Thành D, Cơ quan điều tra đã tiến hành tìm kiếm xung quanh khu vực B vứt túi nylon nhưng không tìm được, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

- 06 đoạn video ghi lại hành vi trộm cắp tài sản do camera gắn trong chợ nông sản quay lại được, Cơ quan điều tra đã lưu trữ vào 01 đĩa DVD và chuyển lưu giữ cùng hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 173; Điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thị B.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Quốc H.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị B, Nguyễn Quốc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị B 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 11/11/2021.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 12/11/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Trả lại cho Nguyễn Thị B số tiền 10.250.000 (mười triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng theo giấy Ủy nhiệm chi lập ngày 18/3/2022 chuyển từ tài khoản tạm giữ của Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đến tài khoản tạm giữ của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm mở tại Kho bạc nhà nước tỉnh Ninh Thuận.

- Giao 01 (một) xe mô tô biển số 52MA-8128, số khung RLGMD11MDFD002549, số máy VMVBJAD002549 nhãn hiệu Galaxy – SYM, màu xanh cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý sau. (Hiện xe mô tô biển số 52MA-8128 đang được quản lý tại kho vật chứng Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/11/2021).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị B, Nguyễn Quốc H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, có mặt các bị cáo. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/4/2022); vắng mặt người bị hại, quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;