TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 06/2022/TLST- HS ngày 14 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST–HS ngày 01 tháng 3 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2022/HSST-QĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022 và Thông báo mở lại phiên tòa số 01/2022/TB-TA ngày 12 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Hồng H, sinh năm 1993 tại Bình Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ X, ấp Y, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn H và bà Đinh Thị D; có vợ Phạm Khánh L (không đăng ký kết hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 14-12-2021, bị Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 08/QĐ-TA ngày 14-12-2021 (bị cáo đang chấp hành); bị bắt tạm giam từ ngày 29-4-2022 cho đến nay; có mặt.
Bị hại: Ông Phạm Văn X, sinh năm 1977; địa chỉ: ấp X, xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, có đơn xin vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1967; địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện M, Thành phố Cần Thơ; vắng mặt, có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 14-6-2021, Nguyễn Hồng H cần tiền tiêu xài nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện ý định trên, Hà điều khiển xe mô tô không biển số đi đến khu vực ấp B, xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương để trộm cắp tài sản. Khi H đi ngang trại heo tại ấp B, xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương của nhà ông Phạm Văn X, sinh năm 1977, H phát hiện phòng ngủ của ông Xoài không có người trong coi nên lén lút vào phòng lấy 01 điện thoại OPPO, loại F11 Pro màu đen, sau đó H mang về nhà cất giấu. Khoảng 14 giờ 30 cùng ngày, ông X phát hiện bị mất 01 điện thoại OPPO, loại F11 Pro màu đen nên đã trình báo Công an xã Cây Trường II. Qua điều tra xác minh, Công an xã Cây Trường II phát hiện Nguyễn Hồng H là người lấy 01 điện thoại OPPO, loại F11 Pro màu đen của ông Xoài.
Vật chứng tạm giữ: 01 điện thoại OPPO, loại F11 Pro màu đen, 01 xe mô tô hiệu HONLEI không biển số.
Theo bản Kết luận định giá tài sản số 35 ngày 22-9-2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện Bàu Bàng kết luận: 01 điện thoại OPPO, loại F11 Pro có giá trị 3.200.000 đồng.
Ngày 15-10-2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng đã trả 01 điện thoại OPPO, loại F11 Pro cho ông X, ông X đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.
Đối với 01 xe mô tô hiệu HONLEI mà H dùng để thực hiện hành vi phạm tội, xe mô tô trên có biển số là 65H4-4117 do ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1967 đứng tên chủ sở hữu. Năm 2013, ông C đã bán xe trên. Từ ngày 02-12-2021 đến 04-12-2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có kết quả.
Cáo trạng số 10/CT–VKSBB ngày 13-01-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng truy tố bị cáo Nguyễn Hồng H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng H mức hình phạt từ 07 (bảy) tháng đến 09 (chín) tháng tù.
+ Miễn chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với bị cáo Nguyễn Hồng H theo Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 08/QĐ-TA ngày 14-12-2021 của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:
+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) xe mô tô không gắn biển số, nhãn hiệu HONLEI, số khung: LF3XCG0A2YAA04737, số máy: 1P50FMG310701819 (không kiểm tra máy móc bên trong) là công cụ phương tiện bị cáo dùng để phạm tội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng qua phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và nội dung luận tội.
Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất toàn bộ nội dung truy tố, luận tội và không có ý kiến tranh luận.
Trong lời nói sau cùng, bị cáo ăn năn hối hận và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng với quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 14- 6-2021, tại trại heo của ông Phạm Văn X thuộc ấp B, xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Hồng H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại OPPO, loại F11 Pro trị giá 3.200.000 đồng (ba triệu hai trăm nghìn đồng) của ông Phạm Văn X. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung, cần có mức hình phạt, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về biện pháp tư pháp: Đối với 01 (một) xe mô tô không gắn biển số, nhãn hiệu HONLEI, số khung: LF3XCG0A2YAA04737, số máy: 1P50FMG310701819 (không kiểm tra máy móc bên trong) là phương tiện bị cáo dùng để phạm tội nên cần tịch thu nộp, ngân sách nhà nước.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về miễn chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với bị cáo Nguyễn Hồng H theo Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 08/QĐ-TA ngày 14-12-2021 của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương là có căn cứ theo Điều 117 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
Các Điều 106, 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017;
Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng H 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29-4-2022.
3. Về biện pháp tư pháp: Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) xe mô tô không gắn biển số, nhãn hiệu HONLEI, số khung: LF3XCG0A2YAA04737, số máy: 1P50FMG310701819 (không kiểm tra máy móc bên trong) (Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 11-01-2022 giữa Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng – Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng).
4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hồng H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2022/HS-ST
Số hiệu: | 41/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về