Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH L

BẢN ÁN 34/2022/HS-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Triệu H, tên gọi khác: không; Sinh năm: 1994; tại CT; Nơi cư trú: Số 32, khu vực B, phường Y, quận Ô, thành phố CT; Nghề nghiệp: thợ bạc; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Ngọc M; Vợ: Lê Huyền Tr, Con: Có 01 người, sinh năm 2018.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0015106/QĐ- XPVPHC ngày 23/10/2018 của Công an huyện Phong Điền, thành phố CT xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc (chấp hành xong ngày 16/11/2018).

- Bị cáo bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện CĐ, tỉnh L từ ngày 25/3/2022 đến nay (có mặt).

- Bị hại:

1. Anh Đặng Hoàng A, sinh năm: 1979 (có mặt);

2. Chị Nguyễn Thị Hoàng V, sinh năm: 1981 (có mặt);

Cùng địa chỉ: Số 602, ấp Đ, xã LT, huyện CĐ, tỉnh L.

- Người có quyền lợi- nghĩa vụ liên quan đến vụ án: ông Nguyễn Văn S, sinh năm: 1960 (có mặt);

Đa chỉ: Số 32, khu vực B, phường Y, quận Ô, thành phố CT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi của bị cáo: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 29/7/2020, Nguyễn Triệu H đang ngủ tại nhà của anh Đặng Hoàng A ở ấp Đ, xã LT, huyện CĐ, tỉnh L thức dậy thì thấy anh A còn ngủ trong phòng, chị Nguyễn Thị Hoàng V (vợ anh A) đã đi làm nên nảy sinh ý định tìm tài sản trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Do H đang làm thợ bạc tại nhà anh A nên biết anh A cất vàng trong hộp nhựa để trên máy ngào tại khu vực gia công vàng ở nhà sau. Lúc này, H đi lại máy ngào, dùng tay mở nắp hộp nhựa lấy trộm 56 chiếc vòng vàng 18 kara bỏ vào trong áo thun, áo bỏ vào quần rồi lấy xe mô tô loại dream (không nhớ biển số, không giấy chứng nhận đăng ký) của H đi đến tiệm gia công vàng bạc Kim Ngân tại số 38, Lê Thị Phỉ, phường 1, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thuê nấu số vàng trên thành 01 thỏi hình chữ nhật rồi mang đến tiệm vàng Kim Yến tại số 28, đường Lê Văn Duyệt, Phường 1, thành phố Mỹ Tho cân trọng lượng 67 chỉ, 06 phân, 09 ly bán cho chủ tiệm là bà Phan Thị Yến được số tiền 220.000.000 đồng. Số tiền có được từ việc bán vàng H đi đến thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chơi và tiêu xài cá nhân hết và H đã bán luôn xe mô tô nêu trên. Ngày 24/3/2022, H bị Công an Huyện CĐ mời làm việc, H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại kết luận định giá tài sản số: 48/KL-HĐĐGTX, ngày 18/8/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện CĐ, thì giá vàng 18 kara trị giá 3.518.000 đồng/chỉ. Do đó trị giá 56 chiếc vòng vàng 18 kara, có tổng trọng lượng 67 chỉ, 06 phân, 09 ly, giá 3.518.000 đồng/01 chỉ là 238.115.961 đồng (hai trăm ba mươi tám triệu một trăm mười lăm ngàn chín trăm sáu mươi mốt đồng).

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, loại bàn phím của Nguyễn Triệu H bỏ lại nhà của anh Đặng Hoàng A. Ngày 16/6/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại trên cho cha ruột bị can là ông Nguyễn Văn S.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Triệu H thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo trình bày: Bị cáo bị truy cứu về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan, sai. Bị cáo không có ý kiến về Kết luận định giá tài sản và lời khai của người bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày tại phiên tòa. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo tự nguyện khai báo; không có ai đe dọa, cưỡng ép.

Bị hại anh Đặng Hoàng A và chị Nguyễn Thị Hoàng V (vợ anh A) có lời trình bày tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa về diễn biến sự việc và hành vi phạm tội của bị cáo. Đối với 56 chiếc vòng vàng 18 kara, có tổng trọng lượng 67 chỉ, 06 phân, 09 ly của anh, chị bị H chiếm đoạt. Sau khi sự việc xảy ra thì ông S là cha ruột của H đã bồi hoàn cho anh chị 204.000.000 đồng. Anh A, chị V không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Người có quyền lợi- nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Văn S có lời trình bày tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ và tại phiên tòa như sau: Việc H chiếm đoạt vàng của anh A, chị V ông không biết. Sau đó H có nói với ông là H lấy trộm của anh A, chị V 56 chiếc vòng vàng 18 kara, có tổng trọng lượng 67 chỉ, 06 phân, 09 ly. H bán vàng tiêu xài cá nhân hết và không có tài sản nên nhờ ông bồi thường thay và ông đã bồi thường cho anh A, chị V 204.000.000đồng.Ông không yêu cầu H trả lại cho ông 204.000.000đồng.

Bản Cáo trạng số 28/CT-VKSCĐ ngày 11/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ, tỉnh L truy tố bị cáo Nguyễn Triệu H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Triệu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động cha bị cáo bồi thường thiệt hại cho anh A, chị V 204.000.000đồng; cha bị cáo H là ông Nguyễn Văn S được Nhà nước thưởng Huân chương chiến công hạng 3 nên đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm b,s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Triệu H từ 07 năm đến 08 năm tù. Do bị cáo không có việc làm nên đề nghị miễn phạt tiền theo khoản 5 Điều 173. Về trách nhiệm dân sự: Anh A, chị V không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề cập.

Ý kiến của bị cáo về quyết định truy tố của Viện kiểm sát: Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Anh A, chị V không tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong lời nói sau cùng: Bị cáo rất xấu hổ với việc làm của mình, xin lỗi cha mẹ, xin lỗi anh A, chị V và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét nội dung vụ án: Qua tranh tụng tại phiên tòa có căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận: Khoảng 06 giờ ngày 29/7/2020, tại ấp Đ, xã LT, huyện CĐ, tỉnh L, Nguyễn Triệu H lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của anh A, chị V đã lén lút chiếm đoạt 56 chiếc vòng vàng có trọng lượng 67 chỉ, 06 phân, 09 ly, trị giá 238.115.961 đồng của anh Đặng Hoàng A và chị Nguyễn Thị Hoàng V nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài.

Tại Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của ngư ời khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

...

Hành vi của bị cáo Nguyễn Triệu H đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình Sự, sửa đổi bổ sung năm 2017 Hội đồng xét xử xét thấy truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ, tỉnh L đối với bị cáo Nguyễn Triệu H là có căn cứ. Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, tuyên bố bị cáo Nguyễn Triệu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo không có tài sản để bồi thường nên đã tác động cha bị cáo bồi thường thiệt hại cho anh A, chị V 204.000.000 đồng; cha bị cáo được Nhà nước thưởng Huân chương chiến công hạng 3; con của bị cáo còn nhỏ; bị cáo phạm tội lần đầu; anh A, chị V xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Xét hình phạt đối với bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người bị hại; tác động xấu đến nếp sống văn minh lành mạnh; gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm mới đủ sức răn đe phòng ngừa chung, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; đồng thời giáo dục bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Với tính chất hành vi, khả năng nhận thức của bị cáo, mức độ hậu quả mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo. Xét, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy cần áp dụng Điều 54 của Bộ Luật hình sự xem xét quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cho bị cáo khi lượng hình. Xét bị cáo không có thu nhập nên chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát miễn phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[6] Xét trách nhiệm dân sự: anh A, chị V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xét.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Triệu H chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 54 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự ;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Triệu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Triệu H 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 25/3/2022.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Triệu H 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (03/8/2022) để đảm bảo kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Triệu H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, ngườ bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2022/HS-ST

Số hiệu:34/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;