Bản án về tội trộm cắp tài sản số 32/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 32/2022/HS-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 16 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định; Tòa án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2022/TLST-HS ngày 30-6-2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Quang Q (tên gọi khác: Lê Tống C), sinh năm 1985 tại Hà Nam.

Nơi ĐKNKTT: thôn Đ, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; nơi ở trước khi bị bắt giữ: xóm 9, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Quang N, sinh năm 1952; con bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1956; có vợ là Vũ Thị D, sinh năm 1984, chưa có con; tiền án. Ngày 06-9-2020 Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 48/2020/HS- ST ngày 30-11-2020; chấp hành xong hình phạt tù ngày 23-6-2021; tiền sự: Ngày 18-10-2021 Công an phường T, thành phố.Nam Định, tỉnh Nam Định ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 3245, phạt tiền 350.000 đồng về hành vi đánh bạc, đã chấp hành nộp tiền phạt ngày 06-4-2022; nhân thân: Ngày 06-11-2006 Công an huyện L, tỉnh Hà Nam lập danh chỉ bản về hành vi đánh bạc; ngày 21- 02-2013, Công an huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi mua bán trái phép chất ma túy; ngày 02-6-2013, Công an huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi mua bán trái phép chất ma túy; ngày 14-7-2016 Công an thành phố.Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 25-7-2017 Công an thành phố.Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi đánh bạc; ngày 03-11-2018 Công an thành phố.Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc; ngày 04-4-2022 bị Công an xã L, thành phố.Nam Định bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ Trái phép chất ma túy”, ngày 22-6-2022 Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ Trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định theo quyết định tạm giam số 129/2022/HSST-QĐTG ngày 22-6-2022 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

- Bị hại: Chị Quách Thị D, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn D, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định. “Vắng mặt”.

- Người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Hải L. “Vắng mặt”.

2. Chị Nguyễn Thị L. “Vắng mặt”.

3. Chị Vũ Thị D. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 02-4-2022 do thiếu tiền tiêu sài cá nhân, Lê Quang Q (Lê Tống C) một mình điều khiển xe đạp đi từ phòng trọ ở xóm 9, xã T, huyện V đi dọc theo Quốc lộ 10 về hướng thành phố Ninh Bình để tìm xem nhà dân nào sơ hở sẽ đột nhập vào trộm cắp tài sản. Khoảng 01 giờ đêm ngày 03-4- 2022, khi đi đến khu vực xóm T, xã L, huyện V, Q đi vào đường bê tông dẫn ra nghĩa trang xóm T, đi vòng ra phía sau khu nhà nghỉ Mai Mai được bao quanh bằng hàng rào dây thép gai và lưới sắt B40 nên Q liền dắt xe đạp đi xuống bãi đất trống sát hàng rào, rồi dùng kéo cắt sắt mà Q mang sẵn trong người từ trước, cắt đứt dây thép gai và lưới sắt B40 của hàng rào, sau đó đột nhập vào khu vườn cây của nhà nghỉ Mai Mai tìm tài sản để trộm cắp. Khi Q đi đến nhà để xe của nhà nghỉ thì phát hiện thấy nhà để xe không khóa cửa, bên trong để nhiều xe mô tô nên Q quyết định lấy trộm chiếc xe mô tô AirBlade màu đen BKS 18C1-205.72 của chị Quách Thị D để ở phía ngoài, không khóa cổ khóa càng, Q dắt chiếc xe mô tô này ra khỏi nhà để xe, đi qua khu vườn đến vị trí hàng rào dây thép gai, lưới B40 đã bị Q cắt đứt lúc trước để tẩu thoát khỏi nhà nghỉ Mai Mai. Sau khi lấy trộm được chiếc xe mô tô của chị Quách Thị D, Q liền dắt chiếc xe này đi theo Quốc lộ 10 qua ngã tư khu công nghiệp Bảo Minh khoảng 500 mét, thì Q cất giấu chiếc xe mô tô này vào một ngôi nhà hoang. Sau đó Q quay lại bãi đất trống phía sau nhà nghỉ Mai Mai để lấy chiếc xe đạp mà lúc đầu Q đi đến, rồi đi xe đạp về phòng trọ ở xóm 9, xã T để ngủ. Khoảng 10 giờ ngày 03-4-2022 Q quay lại ngôi nhà hoang, lấy chiếc xe mô tô AirBlade BKS 18C1-205.72 ra thành phố Nam Định để đánh chìa khóa xe, sau đó điều khiển xe mô tô này về phòng trọ tháo BKS 18C1-205.72 ra cất đi và lắp BKS 18D1-279.54 mà Q đã nhặt được trước đó vào xe mô tô AirBlade trộm cắp được của chị D và sử dụng xe mô tô này để đi lại. Đến sáng ngày 04-4-2022, Q điều khiển xe mô tô AirBlade trộm cắp được tại nhà nghỉ Mai Mai ngày 03/4/2022 đang treo BKS 18D1-279.54 đi mua ma túy tại thành phố Nam Định thì bị Công an xã L, thành phố Nam Định phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời thu giữ chiếc xe mô tô AirBlade nêu trên. Sau khi điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định xác định xe mô tô AirBlade đang treo BKS 18D1-279.54 là tang vật của vụ án trộm cắp tài sản ngày 03-4-2022 tại nhà nghỉ Mai Mai thuộc địa phận xã L, huyện V, tỉnh Nam Định, nên đã bàn giao lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V giải quyết theo thẩm quyền. Công an Thành phố Nam Định bàn giao 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade treo BKS 18D1-279.54;

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Quang Q (Lê Tống C) tại phòng trọ ở xóm 9, xã T, huyện V cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V đã thu giữ: 01 Biển kiểm soát 18C1-205.72 và 01 kéo cắt sắt bằng kim loại màu xám, chuôi kéo được bọc bằng cao su màu cam - xám, kéo dài 25,5cm, rộng 6cm.

Ngày 04-5-2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V có Kết luận định giá tài sản số 12 kết luận: Giá trị xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen BKS 18C1-205.72 là 19.400.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra Lê Quang Q (Lê Tống C) đã khai nhận toàn bộ hành vi của bản thân như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKSVB ngày 29-6-2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố Lê Quang Q (Lê Tống C) về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Q (C) khai nhận toàn bộ hành vi của bị cáo như nội dung Cáo trạng đã nêu và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lê Quang Q (Lê Tống C) phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Quang Q (Lê Tống C) từ 21 tháng đến 24 tháng tù, tổng hợp với hình phạt 30 (Ba mươi) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 129/2022/HSST ngày 22-6-2022 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Buộc bị cáo Lê Quang Q (Lê Tống C) phải chấp hành hình phạt của cả 02 bản án là từ 51 (Năm mươi mốt) đến 54 (Năm mươi tư) tháng tù.

- Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu huỷ 01 kéo cắt săt bằng kim loại màu xám vì không còn giá trị sử dụng. Trả lại cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V 01 biển kiểm soát 18D1-279.54 để điều tra làm rõ, trả lại cho chủ sở hữu xe.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Người bị hại và những người làm chứng đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng không đến phiên toà, tuy nhiên họ đã có đầy đủ lời khai tại cơ quan điều tra, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

[3]. Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ của vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường; Sơ đồ hiện trường vụ trộm cắp tài sản; Các bản ảnh; Biên bản khám xét; Lời khai của người bị hại và lời khai của những người làm chứng tại cơ quan điều tra; các biên bản điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 03-4-2022, tại nhà nghỉ Mai Mai ở xóm T, xã L, huyện V, tỉnh Nam Định, lợi dụng lúc trời tối không có người, Lê Quang Q (Lê Tống C) đã sử dụng kéo cắt sắt cắt đứt dây thép gai và lưới sắt B40 của hàng rào phía sau nhà nghỉ, rồi đột nhập vào khu vườn cây và vào nhà để xe của nhà nghỉ Mai Mai tìm tài sản để trộm cắp, sau đó Q (C) đã lấy trộm được một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade BKS: 18C1-205.72 có giá trị là 19.400.000 đồng của chị Quách Thị D.

Đối chiếu hành vi nêu trên của bị cáo và hậu quả xảy ra với những quy định của pháp luật thì hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh chính trị tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Vì vậy cần xử lý nghiêm trước pháp luật và có mức hình phạt tương xứng để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: [5.1]. Vê nhân thân: Bị cáo Q (C) có nhân thân xấu. Ngày 18-10-2021 Công an phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 3245, phạt tiền 350.000 đồng về hành vi đánh bạc, đã chấp hành nộp tiền phạt ngày 06-4-2022; nhân thân: Ngày 06-11-2006 Công an huyện L, tỉnh Hà Nam lập danh chỉ bản về hành vi đánh bạc; ngày 21-02-2013, Công an huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi mua bán trái phép chất ma túy; ngày 02-6-2013, Công an huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi mua bán trái phép chất ma túy; ngày 14-7-2016 Công an thành phố.N, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 25-7-2017 Công an thành phố.N, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi đánh bạc; ngày 03-11-2018 Công an thành phố.N, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc; ngày 22-6-2022 Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ Trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[5.2]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản bị Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 48/2020/HS-ST ngày 30-11-2020, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo là “Tái phạm” do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5.3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6]. Về đường lối xử lý hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Q có nhân thân xấu, đã được giáo dục nhiều lần nhưng không lấy đo làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội cho thấy bị cáo là đối tượng khó giáo dục nên cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung. Ngoài việc buộc các bị cáo Q (C) phải chấp hành hình phạt của lần phạm tội này thì còn buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 30 (ba mươi) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 129/2022/HSST ngày 22-6-2022 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm do đó Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn do đó không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn khấu trừ một phần thu nhập cho bị cáo.

[9]. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu cho tiêu huỷ 01 kéo cắt săt bằng kim loại vì là vật chứng của vụ án và không còn giá trị sử dụng.

Đối với 01 biển kiểm soát xe mô tô 18D1-279.54 Q khai nhặt được, qua xác minh đây là biển kiểm soát của xe mô tô Blade màu sơn đen - trắng, có số máy: JA36E0038573, số khung: RLHJA3623EY011255, chủ xe là anh Đinh Văn T, trú tại: Y - Y- Nam Định. Anh Đinh Văn T hiện đã rời khỏi địa phương và không có địa chỉ cụ thể; Công an huyện Y cung cấp không tiếp nhận xử lý vụ việc nào liên quan đến chiếc xe mô tô Blade BKS 18D1-279.54 và chiếc xe này cũng không phải vật chứng của vụ án nào do đó cần trả lại cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V để trả lại cho chủ sở hữu xe.

[10]. Về tư cách tham gia tố tụng: Chị Nguyễn Thị L là người cho Q mượn xe và anh Nguyễn Hải L là chủ nhà nghỉ đều không có yêu cầu đề nghị gì do đó không xác định chị L, anh L người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

* Đối với chiếc xe đạp mà Lê Quang Q đã sử dụng để đi trộm cắp tài sản ngày 03-4-2022, qua điều tra xác định: chiếc xe đạp này Q mượn của chị Nguyễn Thị L, ở cùng khu trọ với Q, chị L hoàn toàn không biết việc Q tự ý sử dụng chiếc xe đạp này làm phương tiện để phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V không thu giữ chiếc xe đạp và không xử lý đối với chị Nguyễn Thị L là có căn cứ.

[10]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Lê Quang Q (Lê Tống C) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Lê Quang Q (Lê Tống C) 24 (hai mươi bốn) tháng tù và tổng hợp với hình phạt 30 (Ba mươi) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 129/2022/HSST ngày 22-6-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Buộc bị cáo Lê Quang Q (Lê Tống C) phải chấp hành hình phạt của cả 02 bản án là 54 (Năm mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu cho tiêu huỷ 01 kéo cắt săt bằng kim loại màu xám.

Trả lại cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V 01 biển kiểm soát 18D1- 279.54 để trả lại cho chủ sở hữu xe.

(Vật chứng có đặc điểm, chủng loại như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15-7-2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Quang Q (Lê Tống C) phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 32/2022/HS-ST

Số hiệu:32/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;