TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 276/2021/HSST NGÀY 22/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 12 năm 2021 tại hội trường xét xử 1, trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế (60 đường Nguyễn Huệ) xét xử sơ thẩm công khaivụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 236/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 249/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Quang M (tên gọi khác: L), sinh ngày 02 tháng 6 năm 1996 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú trước đây: 76 Đường T, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế (nhà địa chỉ trên hiện đã bán, bị cáo không có chỗ ở ổn định, hiện gia đình bị cáo đang cư trú tại thôn T, xã H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế nay là phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế); nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang T (Sinh năm 1974) và bà Nguyễn Thị Kim H (Sinh năm 1970); Anh chị em ruột có 03 người, bị cáo là con đầu; vợ, con: chưa có; tiền sự:
không; tiền án: có 03 tiền án:
Quá trình nhân thân: Lúc nhỏ ở với gia đình, học văn hóa đến lớp 6 thì nghỉ học ở nhà.
+ Ngày 10/3/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án số 60/2014/HSST).
+ Ngày 05/5/2015 bị Công an thành phố H xử phạtiến hành chính 500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
+ Ngày 29/6/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 133/2016/HSST).
+ Ngày 16/8/2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 81/2016/HSPT).
+ Ngày 21/8/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án số 141/2018/HSST).
Ngày 04/4/2020 chấp hành xong hình phạt tù.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/8/2021cho đến nay -Bị cáo có mặt.
- Bị hại:
1. Anh Huỳnh Văn C, sinh năm 1979; nơi cư trú: Lô Y22, khu Đ, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
2. Anh Lê Hoành H, sinh năm 1984, nơi cư trú: 34/139 Đường A, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1995. Nơi cư trú:06/30 kiệt 109 Đường Đ, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
2. Ông Trương Đình T, sinh năm 1971; nơi cư trú: Tổ Đ, thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Nam - vắng mặt.
3. Chị Trương Thị Thùy N, sinh năm 2001; nơi cư trú: 107 đường H, thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Nam - vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Bà Lê Thị H, sinh năm 1981; nơi cư trú: 3/3 đường L, phường A, thànhphố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Lương P, sinh năm 1988; nơi cư trú: 30/3 đường B, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào các ngày 23/4/2021 và 02/5/2021, Nguyễn Văn T cùng với Nguyễn Quang M đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:
Vụ 1: Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 23/4/2021, Nguyễn Văn T đang ngồi chơi với Nguyễn Quang M thì cả hai rủ nhau đi lấy trộm tài sản bán kiếm tiền tiêu xài cá nhân. Khoảng 05 giờ 00 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave gắn biển số 75H9-0474 chở M đi ngang công trình đang xây dựng tại 150 Đường C, phường P (nay là phường G), thành phố H, thấy không có người trông coi nên T dừng xe lại, cả hai đi vào lấy trộm 08 tấm sắt dùng đóng cốp pha và 02 ống kim loại sắt hình trụ tròn. Sau đó, cả hai chở tài sản đến đường N tìm nơi tiêu thụ thì bị Công an phường A phát hiện thu giữ tang vật.
Vụ 2: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 02/5/2021, Nguyễn Văn T và Nguyễn Quang M rủ nhau đi trộm cắp tài sản. M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave không gắn biển số chở T đi tìm kiếm tài sản. Khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, cả hai đến tại gara sửa xe ô tô trên đường V thuộc tổ 4, khu vực 2, phường A, thành phố H, M trèo qua hàng rào bưng 4 tấm sắt phế liệu rồi đưa ra cho T bỏ lên xe môtô. Sau đó, M điều khiển xe chở T tẩu thoát thì bị Công an phường A phát hiện bắt giữ M cùng tang vật, còn T chạy bộ trốn thoát.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 08 tấm sắt hình chữ nhật đã qua sử dụng có trọng lượng 56Kg và 02 ống kim loại sắt hình trụ tròn có trọng lượng 29Kg;
- 04 tấm sắt phế liệu có trọng lượng 12Kg;
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave gắn biển số 75H9-0474, số máy HC08E0363173, số khung RLHHC08022Y363029;
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave không gắn biển số, số máy VPJL1P53FMH010873, số khung VPJPCH42PJ012873;
- 01 điện thoại Nokia loại phím bấm, đã qua sử dụng, số Imei 1:
356935093104278, số Imei 2: 356935095104276 (thu của Nguyễn Quang M).
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 108/KL-HĐĐG ngày 24/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H xác định tại thời điểm bị chiếm đoạt:
- 08 tấm sắt đã qua sử dụng có trọng lượng 56Kg trị giá 392.000 đồng; 02 ống kim loại sắt có trọng lượng 29Kg trị giá 203.000 đồng. Tổng cộng 595.000 đồng.
- 04 tấm sắt phế liệu có trọng lượng 12Kg trị giá 96.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã xử lý trả lại cho anh Huỳnh Văn C 08 tấm sắt hình chữ nhật và 02 ống kim loại sắt hình trụ tròn. Trả lại cho anh Lê Hoành H 04 tấm sắt phế liệu.
Bản cáo trạng số 330/CT-VKS-HS ngày 29/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế truy tố Nguyễn Quang M về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang M phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 đến 08 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Không có ai yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia loại phím bấm, đã qua sử dụng, số Imei 1: 356935093104278, số Imei 2: 356935095104276 vì không liên quan đến hành vi trộm cắp của bị cáo.
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave gắn biển số 75H9-0474, số máy HC08E0363173, số khung RLHHC08022Y363029 và xe mô tô nhãn hiệu Wave không gắn biển số, số máy VPJL1P53FMH010873, số khung VPJPCH42PJ012873; Cơ quan điều tra Công an thành phố H đang tạm giữ, hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi có kết quả sẽ xử lý sau.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Đối với hành vi của Nguyễn Văn T đã được Cơ quan điều tra kết luận tại bản kết luận điều tra số 198 ngày 08/8/2021 và Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố T tại bản Cáo trạng số 296 ngày 19/8/2021 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H; bị cáo nói lời nói sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Tiến hành tố tụng, người Tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Tiến hành tố tụng, người Tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Quang M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo phù với lời khai của bị hại tại cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để khẳng định: Vào các ngày 23/4/2021 và 02/5/2021, tại địa bàn các phường P (nay là phường G) và phường A, thành phố H, Nguyễn Văn T và Nguyễn Quang M 02 lần trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt được định giá là 691.000 đồng (Sáu trăm chín mươi mốt nghìn đồng). Trong đó: chiếm đoạt tài sản của anh Huỳnh Văn C có giá trị là 595.000 đồng, anh Lê Hoành H là 96.000 đồng. Mặc dù giá trị tài sản bị cáo trộm cắp dưới 2.000.000 đồng, nhưng bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà còn tiếp tục trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như bản Cáo trạng số 330/CT- VKS-HS ngày 29/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường và bất chấp pháp luật, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương. Do vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử tại phiên tòa hôm nay để áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4] Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần vi phạm pháp luật bị xử phạtiến hành chính và xử lý hình sự. Nhưng không lo làm việc làm để kiếm tiền nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình, mà lười lao động, muốn kiếm tiền trên thành quả lao động của người khác, đã lén lút trộm cắp tài sản. Nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo là bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tại cơ quan điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Nên cần xử phạt bị cáo một mức án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sáttại phiên tòa là phù hợp.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng:
+ Đối với 01 điện thoại Nokia loại phím bấm, đã qua sử dụng, số Imei 1: 356935093104278, số Imei 2: 356935095104276 thu của bị cáo M, xét bị cáo không sử dụng điện thoại này để liên lạc cho ai để phục vụ cho hành vi trộm cắp tài sản, nên cần trả lại cho bị cáo.
+ Đối với 02 xe mô tô mà Nguyễn Quang M và Nguyễn Văn T sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Tại Cơ quan điều tra T khai nhận nguồn gốc do lấy trộm của người khác, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đang tiếp tục tạm giữ 02 xe mô tô trên để điều tra làm rõ và kết luận trong một vụ án khác. Nên không giải quyết xử lý tài sản trong vụ án này.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang M 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 07/8/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Tuyên trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia loại phím bấm, đã qua sử dụng, số Imei 1: 356935093104278, số Imei 2: 356935095104276 theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30/9/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.
3.Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo Nguyễn Quang M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 276/2021/HSST
Số hiệu: | 276/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về