Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 18/2022/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/QĐXXST - HS ngày 12 tháng 9 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: T Mụn; Sinh năm: 1985; Nơi sinh: Thị xã L, tỉnh Hậu Giang; Nơi cư trú: Khu vực B, phường B, thị xã L, tỉnh Hậu Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964 và bà Lâm Lệ T, sinh năm 1964; Có vợ Thạch Thị S và có 01 người con Nguyễn M, sinh năm 2011; Tiền sự: 0. Nhân thân: Ngày 18/9/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đến ngày 30/8/2019, bị cáo đã chấp hành xong. Tính đến lần vi phạm tiếp theo vào ngày 31/3/2022 này, thời hạn đã hơn 02 năm, nên bị cáo T (T Mụn) được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Tiền án: 01. Ngày 27/5/2020, bị cáo Nguyễn Văn T bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hậu Giang tuyên xử phạt 02 năm tù giam về “Tội trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Đến ngày 16/01/2022, bị cáo T đã chấp hành xong án phạt tù nhưng chưa được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 11/7/2022 cho đến nay, bị cáo có mặt tại tòa.

2. Trần Minh Th; Tên gọi khác: Nhí; Sinh ngày 20/3/2003; Nơi sinh: Huyện L, tỉnh Hậu Giang; Nơi cư trú: Ấp 8, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 04/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn T, sinh năm 1978 và bà Phạm Thị Thu Y, sinh năm 1980; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án; Tiền sự: 0. Nhân thân: Ngày 28/6/2018, bị cáo Trần Minh Th bị Công an huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị áp dụng hình thức xử phạt là cảnh cáo. Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 11/7/2022 cho đến nay, bị cáo có mặt tại tòa.

- Bị hại:

1. Trần Văn N, sinh năm: 1982. (có mặt)

2. Nguyễn Thị M, sinh năm: 1984. (vắng) Cùng địa chỉ: Ấp T, xã L, Thị xã L, tỉnh Hậu Giang.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Phạm Ngọc T, sinh năm: 1998.

Địa chỉ: Ấp 4, xã V, huyện L, tỉnh Hậu Giang. (vắng)

- Người làm chứng: Trần Quốc T, sinh năm: 1989. (vắng) Địa chỉ: Ấp 8, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 30/3/2022, Nguyễn Văn T (tên thường gọi là T Mụn) và Trần Minh Th (tên thường gọi là Nhí) cùng với Trần Quốc T (tên thường gọi T Ken) và Phạm Ngọc T đi đến địa bàn thị xã N, tỉnh Sóc Trăng nhậu ở nhà bạn. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T (T Ken) chở Tiên về trước; còn T Mụn và Th ở lại nhậu đến khoảng 23 giờ cùng ngày về sau. Trên đường về, Th điều khiển xe môtô, nhãn hiệu View, màu sơn nâu, biển số 52L8-xxxx chở T Mụn ngồi phía sau, đi từ thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng về hướng thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, Th có nói với T Mụn là không có tiền tiêu xài, trên đường về nếu thấy có tài sản sơ hở thì lấy rồi bán, lấy tiền chia nhau tiêu xài, T Mụn đồng ý. Đến khoảng 00 giờ 45 phút, khi đi đến đoạn đường thuộc ấp T, xã L, thị xã L, tỉnh Hậu Giang, cả hai nhìn thấy xe môtô, nhãn hiệu Hadosiva, màu nâu, biển số 65F8-xxxx của ông Trần Văn N đang đậu cặp lề đường, cùng chiều với xe của Th và T Mụn đang di chuyển. Khi đó, ông N và vợ ông N tên Nguyễn Thị M đang hái nấm rơm cách vị trí xe đang đậu khoảng 40 mét vào phía trong, nên cả hai nảy sinh ý định lấy trộm. Lúc này, Th điều khiển xe chở T Mụn qua khỏi vị trí xe định lấy trộm đang đậu khoảng 5 mét thì Th dừng xe lại, T Mụn xuống xe và đi bộ ngược lại chỗ vị trí chiếc xe đang đậu, còn Th điều khiển xe chạy ngược lại chỗ T Mụn để quan sát canh đường. Lợi dụng không ai trông thấy, T Mụn nhanh chóng dẫn xe đi, khoảng 10 mét thì T Mụn lên xe khởi động nổ máy rồi chạy đi, xe không có gắn sẵn chìa khóa nhưng vẫn khởi động máy chạy được; T Mụn và Th cùng điều khiển xe chạy thẳng về hướng Trung tâm thị xã Long Mỹ. Đến đoạn cầu Trà Ban 2 thuộc phường Thuận An, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, Th dừng xe lại đậu ở giữa cầu, T Mụn chạy phía sau đến hỏi Th “Xe bị gì?” thì Th trả lời “Xe hết xăng!”; cùng lúc đó, ông N điều khiển xe môtô chạy phía sau đến và lớn Th truy hô “ăn cướp”. Lúc này, T Mụn hoảng hốt, liền bỏ lại xe vừa lấy trộm được rồi chạy bộ về hướng Chùa Ba Cô (thuộc Khu vực 3, phường Thuận An, thị xã Long Mỹ), còn Th thì bị người dân vây bắt, giữ lại cùng với tang vật là chiếc xe môtô của ông N bị mất trộm; sau đó, Th bị đưa về cơ quan Công an làm việc.

Ngay sau khi bị phát hiện và người dân vây bắt, tại Cơ quan điều tra, do sợ bị xử lý nên Th không thành khẩn khai nhận hành vi vi phạm của mình; Th khai việc T Mụn lấy trộm xe Th không biết và không liên quan. Do Th không bị bắt quả tang và chưa đủ cơ sở xử lý nên được cơ quan Công an cho về ngay sau khi làm việc xong. Đối với T Mụn, do sợ bị bắt, nên sau khi chạy thoát được, T Mụn đã bỏ địa phương trốn đến thành phố Hồ Chí Minh để làm thuê, nhằm trốn tránh việc xử lý của cơ quan pháp luật. Đến ngày 11/7/2022, Cơ quan điều tra đã triệu tập mời làm việc được đối với T Mụn và Th . Qua làm việc, T Mụn và Th đã thành khẩn khai nhận hành vi lấy trộm xe môtô của người khác vào ngày 31/3/2022 tại địa bàn thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, nhằm bán lấy tiền chia nhau tiêu xài vào mục đích cá nhân.

Căn cứ Bản Kết luận định giá tài sản số: 05/HĐĐGTS ngày 22/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân thị xã Long Mỹ kết luận: xe môtô, nhãn hiệu Hadosiva, màu nâu, biển số 65F8-xxxx, số máy US100E9011909, số khung SPOG00714006702, đã qua sử dụng có tổng giá trị tài sản là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại cáo trạng số 20/CT-VKS-TXLM ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Long Mỹ đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Minh Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự).

Luận tội của Kiểm sát viên: Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như nội dung cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Minh Th phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, và đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 24-30 tháng tù, Trần Minh Th mức án từ 15 đến 18 tháng tù và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Ý kiến người bị hại Trần Văn N: Không yêu cầu bị cáo bồi thường trách nhiệm dân sự, về trách nhiệm hình sự không có ý kiến.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà;

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Long Mỹ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Long Mỹ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Đối với bị hại Nguyễn Thị M, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Phạm Ngọc T; người làm chứng Trần Quốc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đã cung cấp lời khai nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng tại phiên tòa và dành quyền kháng cáo cho Nguyễn Thị M, Phạm Ngọc T theo luật định.

[3] Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Minh Th thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ đã có đủ cơ sở để khẳng định: Vào ngày 31/3/2022, bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Minh Th đã có hành vi lén lút lấy trộm xe mô tô biển kiểm soát 65F8-xxxx của ông Trần Văn N tại ấp T, xã L, thị xã L, tỉnh Hậu Giang nhằm mục đích đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Theo Kết luận định giá tài sản thì xe mô tô biển kiểm soát 65F8-xxxx có giá trị còn lại là 2.500.000 đồng. Do đó hành vi trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành “Tội trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang truy tố các bị cáo “Tội trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó các bị cáo trên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình đã gây ra. Khi thực hiện hành vi phạm tội không có sự bàn bạc cấu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân các bị cáo.

[5] Xét về nhân thân: Nhân thân bị cáo T: Ngày 18/9/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đến ngày 30/8/2019, bị cáo đã chấp hành xong. Tính đến lần vi phạm tiếp theo vào ngày 31/3/2022 này, thời hạn đã hơn 02 năm, nên bị cáo T (T Mụn) được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Nhân thân bị cáo Th: Ngày 28/6/2018, bị cáo Trần Minh Th bị Công an huyện L, tỉnh Hậu Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị áp dụng hình thức xử phạt là cảnh cáo.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Ngày 27/5/2020, bị cáo Nguyễn Văn T bị Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang tuyên xử phạt 02 năm tù giam về “Tội trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Đến ngày 16/01/2022, bị cáo T đã chấp hành xong án phạt tù nhưng chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này bị cáo Nguyễn Văn T bị áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ:

+ Bị cáo Nguyễn Văn T trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được áp dụng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Bị cáo Trần Minh Th trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiển sát tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Long Mỹ đã trả lại xe môtô, nhãn hiệu Hadosiva, màu nâu, biển số 65F8-xxxx cho chủ sở hữu là ông Trần Văn N, ông N đã nhận lại xe môtô. Giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thi xã Long Mỹ tiếp tục xác minh nguồn gốc xe mô tô biển kiểm soát 52L8-xxxx khi có căn cứ xử lý theo quy định pháp luật.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không đặt vấn đề xem xét [10] Về án phí: Buộc các bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 106, Điều 268, Điều 269, Điều 292, Điều 293 và Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Tội danh và điều luật áp dụng: Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn T (tên gọi khác T Mụn) và Trần Minh Th (tên gọi khác Nhí) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo là ngày 11/7/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 , Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Minh Th 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo là ngày 11/7/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Long Mỹ đã trả lại xe môtô, nhãn hiệu Hadosiva, màu nâu, biển số 65F8-xxxx cho chủ sở hữu là ông Trần Văn N, ông N đã nhận lại xe môtô. Giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Long Mỹ tiếp tục xác minh nguồn gốc xe mô tô biển kiểm soát 52L8-xxxx khi có căn cứ xử lý theo quy định pháp luật.

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Minh Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo, bị hại Trần Văn N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại Nguyễn Thị Mộng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương nơi đương sự cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2022/HS-ST

Số hiệu:20/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;