Bản án về tội trộm cắp tài sản số 197/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 197/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19/7/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 184/2022/HS-ST ngày 23/6/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 198/2022/QĐXXST-HS ngày 07/7/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Quang V (tên gọi khác: X), sinh ngày 29/9/1987, tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi cư trú: Tổ dân phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Đặng Văn H (đã chết); con bà Lê Thị C, Bị cáo có vợ là Lê Thị Nhật T, sinh năm 1990 (đã ly hôn); Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2010.

Tiền án 02 tiền án, cụ thể: Ngày 01 tháng 12 năm 2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 03 năm 03 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo Bản án số 315/2014/HSST. Bị cáo chấp hành án phạt tù tại Trại giam Đắk Trung - Bộ Công an, đến ngày 19 tháng 01 năm 2017 chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo chưa được xóa án tích.

Ngày 13 tháng 11 năm 2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 03 năm tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo Bản án số 261/2017/HSST, bị cáo chấp hành án phạt tù tại Trại giam Đắk Trung - Bộ Công an, đến ngày 18 tháng 01 năm 2020, chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo chưa được xóa án tích. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại Nhà tạm giữ Công thành phố Buôn Ma Thuột; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Ông Đặng Đình B, sinh năm 1964; Địa chỉ: 234 Nguyễn Thị Đ, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột; vắng mặt.

2. Ông Hoàng Huy T, sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn 13, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1987; Địa chỉ: 98 Y, phường T1, thành phố Buôn Ma Thuột; vắng mặt.

2. Bà Lê Thị C; Địa chỉ cư trú: Tổ dân phố 7, phường T2, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

3. Ông Nguyễn Mạnh T; Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đng Quang V là người nghiện chất ma tuý và đã 02 lần bị kết án về tội cố ý chưa được xoá án tích, nhưng tiếp tục thực hiện vi phạm tội cụ thể:

Khong 09 giờ ngày 17 tháng 01 năm 2022, V một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, biển số 47K9- 4233 đi trên các tuyến đường thuộc địa bàn thành phố B, để tìm nhà dân có tài sản nhưng sơ hở trong quản lý để trộm cắp bán lấy tiền mua ma tuý sử dụng và tiêu xài cá nhân. Khi đi đến khu vực trước cổng chùa K, trên đường P, thành phố B, thì V gặp đối tượng H cũng là người nghiện chất ma tuý. Tại đây, V rủ H cùng đi trộm cắp và H đồng ý. Sau đó, V điều khiển xe mô tô biển số 47K9- 4233 chở H ngồi sau đi tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi ngang qua nhà ông Đặng Đình B, cả hai thấy cửa cổng và cửa chính nhà này mở nên dừng lại quan sát. Thấy trong nhà không người, V đưa xe mô tô cho H cầm lái ngồi ngoài đợi, còn V đi vào trong nhà lén lút trộm cắp 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Asus màu đen của ông B đang để trên chiếc bàn tại phòng khách, rồi ra xe mô tô do H điều khiển tẩu thoát. Trên đường đi, V và H ghé vào tiệm cầm đồ “Nguyễn P’’, cầm cố chiếc máy tính vừa trộm cắp được cho anh Nguyễn Văn K, là chủ tiệm lấy số tiền 1.500.000 đồng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, V quay lại tiệm cầm đồ và thoả thuận bán chiếc máy tính trên cho anh K với giá 2.000.000 đồng, anh K đồng ý và đưa thêm cho V 500.000 đồng. V và H đã dùng hết số tiền 2.000.000 đồng bán chiếc máy tính vào việc mua tuý sử dụng và tiêu xài cá nhân. Sau khi phát hiện mất tài sản, ông Đặng Đình B đã đến Cơ quan Công an trình báo và giao nộp 01 đĩa DVD được trích xuất từ Camera nhà ông B ghi lại hình ảnh V mặc áo khoác màu xanh, đội mũ bảo hiểm màu trắng, mặt bịt khẩu trang đội nhập vào nhà ông B trộm cắp chiếc máy tính xách tay, Cơ quan điều tra đã triệu tập V đến việc. Tại Cơ quan điều tra, V tự nguyện giao nộp: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, biển số 47K9- 4233, 01 (một) chiếc áo khoác màu xanh và 01 (một) chiếc mũ bảo hiểm màu trắng là phương tiện và trang phục V dùng vào việc phạm tội. Ngày 18 tháng 01 năm 2022, anh K tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra chiếc máy tính xách tay hiệu Asus màu đen, là vật chứng của vụ án để phục vụ công tác điều tra.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 16/KL- HĐĐGTS ngày 19 tháng 01 năm 2022, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Asus màu đen, model K555L, chip Core i5- 5200U 2.20 GHz, Ram 4Gb, ổ cứng HDD 250GB (tài sản đã qua sử dụng); trị giá:

5.600.000 đồng (năm triệu sáu trăm ngàn đồng).

Ngoài ra, quá trình điều tra Đặng Quang V còn khai nhận: Vào ngày 08 tháng 12 năm 2021, khi đang ở khu vực Km5, thành phố B, thì V gặp đối tượng tên H đi xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, gắn biển số 48B1- 566.37, V rủ H cùng đi trộm cắp tài sản thì H đồng ý. Sau đó, H điều khiển chiếc xe mô tô trên chở V đi đến địa bàn xã Hoà T, thành phố B, để tìm tài sản trộm cắp. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi cả hai đi ngang qua nhà anh Hoàng Huy T, thì thấy cửa cổng và cửa chính nhà này mở. V nói H dừng xe đứng ngoài đường đợi, còn V đi vào trong nhà lén lút trộm cắp 01 bức tượng khắc hình 02 con cóc bằng gỗ màu vàng nâu đang để trên bàn trong phòng khách nhà anh Tâm, rồi ra xe cùng H tẩu thoát. Trên đường đi đến đoạn đường Nguyễn Văn Cừ, thành phố Buôn Ma Thuột, thì có một người nam giới điều khiển xe mô tô đi cùng chiều hỏi mua bước tượng, V đồng ý bán bước tượng vừa trộm cắp được cho người này lấy số tiền 1.000.000 đồng, số tiền này V và H đã sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Tại Cơ quan điều tra anh T trình báo. Ngày 08 tháng 12 năm 2021, gia đình anh T bị kẻ gian đột nhập trộm cắp 01 bức tượng khắc hình 02 con cóc bằng gỗ “Hương nu” màu vàng nâu, kích thước khoảng (50 x 35 x 25)cm, nặng khoảng 15kg- 20kg; bước tượng này do anh T mua vào năm 2014, tiền gỗ là 5.000.000 đồng và tiền thuê người khắc hình 02 con cóc là 5.000.000 đồng, anh T giao nộp 01 đĩa DVD được trích xuất từ Camera nhà anh T ghi lại hình ảnh V đội nhập vào nhà anh T trộm cắp tài sản để phục vụ công tác điều tra. Quá trình điều tra xác định chiếc biển số 48B1- 566.37, được cơ quan chức năng cấp cho chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu sơn Đen- xám- bạc, do ông Nguyễn Xuân H đăng ký chủ sở hữu vào năm 2019, sau đó ông H bán chiếc xe này cho ông Nguyễn Văn T và ông T giao cho con ruột là anh Nguyễn Mạnh T sử dụng chiếc xe này. Trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 01 năm 2022, anh T1 học thêm tại địa bàn phường T, thành phố B và sử dụng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, biển số 48B1- 566.37, làm phương tiện đi lại. Vào khoảng 14 giờ ngày 08 tháng 12 năm 2021, anh T1 có cho một người tên T, là bạn bè quen biết ngoài xã hội mượn chiếc xe này, đến 18 giờ cùng ngày, thì T trả lại xe cho anh T1. Tại Cơ quan điều tra Đặng Quang V và anh T1 đều xác định không quen biết, quan hệ gì với nhau.

Cơ quan điều tra đã ra Quyết định thực nghiệm điều tra cho V chỉ nơi thực hiện hành vi, cách thức thực hiện hành vi và vị trí tài sản V đã trộm cắp của anh Hoàng Huy T, kết quả phù hợp với lời khai nhận tội của V, nội dung trình báo của anh T và dữ liệu điện tử Cơ quan điều tra đã thu thập.

Ngày 18 tháng 4 năm 2022, Cơ quan điều tra đã yêu cầu định giá tài sản đối với 01 (một) bức tượng khắc hình 02 (hai) con cóc bằng gỗ “Hương nu” màu vàng nâu, kích thước khoảng (50 x 35 x 25)cm, khối lượng khoảng từ 15kg- 20kg (tài sản không thu hồi được). Tại Công văn số 04/HĐĐGTS ngày 26 tháng 4 năm 2022, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, thể hiện: Căn cứ hồ sơ của tài sản yêu cầu định giá, trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá. Hội đồng định giá không đủ cơ sở để định giá tài sản theo yêu cầu; Hội đồng định giá tài sản từ chối định giá.

Tại bản cáo trạng số: 204/CT-VKS BMT ngày 23/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Đặng Quang V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo khai nhận: Hành vi phạm tội của bị cáo như bản cáo trạng nêu trên là đúng, những lời khai tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện, khách quan, không bị ép cung nhục hình gì.

Nhng lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình điều tra và tại phiên tòa là khách quan, đầy đủ và đúng sự thật của vụ án.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 2 Điều 173; điểm b, h, r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Quang V mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra mẹ ruột của bị cáo Đặng Quang V là bà Lê Thị C đã tự nguyện bồi thường cho anh Nguyễn Văn K số tiền 2.000.000 đồng, là tiền anh K đã trả cho bị cáo V khi mua chiếc máy tính xách tay từ bị cáo. Anh K không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Anh Hoàng Huy T không yêu cầu bị cáo V phải bồi thường giá trị bức tượng bằng gỗ khắc hình 02 con cóc mà bị cáo và đồng bọn đã chiếm đoạt.

Truy thu số tiền 1.000.000 đồng là tiền bị cáo V hưởng lợi bất chính từ hành vi trộm cắp tài sản của anh Tâm, để sung ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng:

Đi với 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Asus màu đen, là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của ông Đặng Đình B. Ngày 19 tháng 01 năm 2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc máy tính xách tay trên cho ông B nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

Đi với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, biển số 47K9- 4233, bi56 cáo V khai mua của người tên K. Tại phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của Phòng Cảnh sát Giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk, thể hiện: Xe mô tô biển số 47K9- 4233; chủ xe Đinh Thị H, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn E, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, xác minh không có người tên Đinh Thị H đăng ký thường trú tại thôn E, xã Ea T (xã D nay là xã Ea T), nên Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu chiếc xe này, nên tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau là phù hợp.

Đi với 01 chiếc áo khoác màu xanh và 01 chiếc mũ bảo hiểm màu trắng, là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo V mặc trên người khi thực hiện hành vi phạm tội. Do bị cáo từ chối nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

Đi với 02 chiếc đĩa DVD chứa dữ liệu ghi lại hình ảnh bị cáo V cùng đồng bọn thực hiện hành trộm cắp tài sản vào ngày 17 tháng 01 năm 2022 và ngày 08 tháng 12 năm 2021, là chứng cứ của vụ án cần lưu hồ sơ.

Đi với anh K là người đã nhận cầm cố và mua chiếc máy tính xách tay từ bị cáo. Tuy nhiên, anh K không biết rõ đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh K là phù hợp.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo V. Ngày 17 tháng 6 năm 2022, Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo V bằng hình thức Cảnh cáo, theo quy định tại khoản 1, Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ, là đúng quy định.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, biển số 47K9- 4233, là phương tiện bị cáo V dùng vào việc phạm tội. Do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe này, nên Cơ quan điều tra tách chiếc xe ra khỏi nội dung vụ án để xác minh, xử lý sau là phù hợp.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, biển số 48B1- 566.37, thuộc sở hữu của ông T và do anh T1 quản lý. Do chưa xác định được đây có phải là phương tiện do bị cáo V và đồng bọn dùng vào việc phạm tội hay không, nên Cơ quan điều tra tách ra khỏi nội dung vụ án để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Đi với 02 đối tượng đều có tên là H cùng tham gia thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với bị cáo V. Do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này nên Cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Đi với người nam giới đã mua bước tượng gỗ từ bị cáo V, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Đi với việc bị cáo V khai cùng đối tượng tên H mua ma tuý sử dụng tại khu vực nghĩa địa cuối đường Phan Bội C, thành phố B. Do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người bán nên Cơ quan điều tra tách ra khỏi nội dung vụ án để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Bị cáo đồng ý với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không tranh luận, đối đáp gì với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.

Tại phần lời nói sau cùng bị cáo tỏ thái độ ăn năn, hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được hưởng các chính sách khoan hồng nhân đạo của pháp luật nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay về cơ bản là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Xét hành vi của bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại 02 lần thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, trong đó cùng đối tượng H lén lút chiếm đoạt 01 bức tượng khắc hình 02 con cóc bằng gỗ của anh Hoàng Huy T, sau đó bán lấy số tiền 1.000.000 đồng và cùng đối tượng H lén lút chiếm đoạt 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Asus, trị giá: 5.600.000 đồng của ông Đặng Đình B, là phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Điều 173 Bộ Luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) ………..;

g) Tái phạm nguy hiểm’’

[3]. Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng không những đã chiếm đoạt trái phép tài sản của người bị hại mà còn gây nên những ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được rằng tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật quan tâm bảo vệ, mọi hành vi chiếm đoạt trái pháp luật đều bị trừng trị nghiêm khắc. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật và vì động cơ vụ lợi nên vào ngày 08 tháng 12 năm 2021, bị cáo V cùng đối tượng H đã lét lút chiếm đoạt 01 bức tượng khắc hình 02 con cóc bằng gỗ của anh Tâm, sau đó bán lấy số tiền 1.000.000 đồng và ngày 17 tháng 01 năm 2022, bị cáo cùng đối tượng H thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Asus, trị giá 5.600.000 đồng của ông Đặng Đình B, với mục đích tiêu xài cá nhân. Xét thấy bị cáo là người có 02 tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục hai lần thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” và tình tiết tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của bộ luật hình sự. Cho nên đối với bị cáo cần thiết phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định. Có như vậy, mới đảm bảo phát huy tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4]. Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, phạm tội gây thiệt hại không lớn, tác động gia đình khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, tự thú hành vi phạm tội. Đây là, những tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần xem xét trong quá trình lượng hình để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

Chấp nhận việc là bà Lê Thị C đã tự nguyện bồi thường cho anh K số tiền 2.000.000 đồng và anh Tâm không yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị bức tượng bằng gỗ mà bị cáo và đồng bọn đã chiếm đoạt. Bị hại ông B đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Xét thấy đây là sự thỏa thuận của các đương sự, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận, về trách nhiệm nhiệm dân sự hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Truy thu số tiền 1.000.000 đồng là tiền bị cáo V hưởng lợi bất chính từ hành vi trộm cắp tài sản của anh Tâm, để sung ngân sách Nhà nước.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc máy tính xách tay cho ông B nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

Đi với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Smash, biển số 47K9- 4233, bị cáo V khai mua của người tên Khoa. Tại phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của Phòng Cảnh sát Giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk, thể hiện: Xe mô tô biển số 47K9- 4233; chủ xe Đinh T Hạnh, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn E, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, xác minh không có người tên Đinh Thị H đăng ký thường trú tại thôn E, xã Ea T (xã D nay là xã Ea T), nên Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu chiếc xe này, nên tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau là phù hợp.

Đi với 01 chiếc áo khoác màu xanh và 01 chiếc mũ bảo hiểm màu trắng, là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo V mặc trên người khi thực hiện hành vi phạm tội. Do bị cáo từ chối nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

Đi với 02 chiếc đĩa DVD chứa dữ liệu ghi lại hình ảnh bị cáo V cùng đồng bọn thực hiện hành trộm cắp tài sản vào ngày 17 tháng 01 năm 2022 và ngày 08 tháng 12 năm 2021, là chứng cứ của vụ án cần lưu hồ sơ.

Đi với anh K là người đã nhận cầm cố và mua chiếc máy tính xách tay từ bị cáo. Tuy nhiên, anh K không biết rõ đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh K là phù hợp.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo V. Ngày 17 tháng 6 năm 2022, Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo V bằng hình thức Cảnh cáo, theo quy định tại khoản 1, Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ, là đúng quy định.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, biển số 48B1- 566.37, thuộc sở hữu của ông T và do anh T1 quản lý. Do chưa xác định được đây có phải là phương tiện do bị cáo V và đồng bọn dùng vào việc phạm tội hay không, nên Cơ quan điều tra tách ra khỏi nội dung vụ án để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Đi với 02 đối tượng đều có tên là H cùng tham gia thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với bị cáo V. Do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này nên Cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Đi với người nam giới đã mua bước tượng gỗ từ bị cáo V, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Đi với việc bị cáo V khai cùng đối tượng tên H mua ma tuý sử dụng tại khu vực nghĩa địa cuối đường P, thành phố B. Do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người bán nên Cơ quan điều tra tách ra khỏi nội dung vụ án để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 173; điểm b, h, r, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Quang V (tên gọi khác: X) phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Quang V 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19/01/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc là bà Lê Thị C đã tự nguyện bồi thường cho anh K số tiền 2.000.000 đồng và anh T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị bức tượng bằng gỗ mà bị cáo và đồng bọn đã chiếm đoạt. Bị hại ông B đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm là tự nguyện nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết về phần trách nhiệm dân sự.

Truy thu sung ngân sách Nhà nước của bị cáo Đặng Quang V số tiền 1.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

u hồ sơ vụ án: 02 chiếc đĩa DVD chứa dữ liệu ghi lại hình ảnh bị cáo V cùng đồng bọn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 17 tháng 01 năm 2022 và ngày 08 tháng 12 năm 2021.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc máy tính xách tay Asus màu đen, model K555L, chip Core i5- 5200U 2.20 GHz, Ram 4Gb, ổ cứng HDD 250GB cho ông Đặng Đình B nhận quản lý, sử dụng.

Tch thu, tiêu huỷ của bị cáo Đặng Quang V 01 chiếc áo khoác màu xanh và 01 chiếc mũ bảo hiểm màu trắng (đặc điểm, số lượng cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/7/2022 của Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục Thi hành án dân sư thành phô B).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đặng Quang V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án công khai. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 197/2022/HS-ST

Số hiệu:197/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;