TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 139/2021/HS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 134/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:
Phạm Thành N, sinh năm 1977 tại Thái B; Nơi cư trú: 24/17A Nguyễn Thiện T, phường Tân L, Nha T, Khánh H; Chỗ ở: Tổ 3 Phú V 2, xã Vĩnh T, Nha T, Khánh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc T, Con bà Nguyễn Thị L; Vợ: Cao Thị T, sinh năm 1976; Có 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2009.
Tiền án: Bản án số 72/HSST ngày 21-22/7/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 06 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” và “Cướp tài sản công dân”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/9/2000. Được miễn tiền án phí và khoản tiền sung quỹ nhà nước. Chưa thi hành án phần trách nhiệm dân sự.
Tiền sự: Không Nhân thân: Bản án số 250/HSST ngày 03/12/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/5/2016. Đã đóng án phí.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2020 đến ngày 19/10/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
Có mặt.
* Bị hại: Bà Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1973 Địa chỉ: Số 01 Đầu B, Phú V 2, xã Vĩnh T, Nha T, Khánh H. Vắng mặt.
* Người làm chứng:
1. Nguyễn Phong V, sinh năm 1975 Địa chỉ: Phú V 2, xã Vĩnh T, Nha T, Khánh H. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 09/10/2020, Phạm Thành N đi bộ quanh khu vực xã Vĩnh T, thành phố Nha T nhằm mục đích tìm ai để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến nhà chị Nguyễn Thị Hồng L tại địa chỉ số 01 đường Đầu B, thôn Phú V 2, xã Vĩnh T, thành phố Nha T, N phát hiện nhà không có người trông giữ, cửa phía sau nhà không khóa nên lén lút đi vào nhà. Sau khi vào được nhà chị L, N phát hiện có 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7, màu vàng để trên bàn học nên lấy bỏ vào trong túi quần rồi tiếp tục tìm kiếm. Tại phòng khách, N nhìn thấy 01 tivi hiệu Samsung 48 inch nên tháo dây điện, đồng thời lấy điều khiển tivi bỏ vào trong túi quần rồi đem tivi ra khỏi nhà. Khi N đem tivi đi khỏi nhà chị L khoảng 15 mét thì bị anh Nguyễn Phong V phát hiện và theo dõi. Phạm Thành N tiếp tục đem tivi đi đến khu vực có nhiều ngôi mộ để cất giấu. Sau khi cất giấu tivi vừa trộm được xong, N đi tìm phương tiện đến chở tivi đi tiêu thụ thì bị anh V cùng quần chúng nhân dân bắt giữ và giao cho Công an xã Vĩnh T.
Tại Cơ quan Công an, Phạm Thành N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 469/KL-HĐĐGTS ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime 32GB trị giá: 1.235.000 đồng, 01 tivi Samsung Smart 48 inch trị giá 3.200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Phạm Thành N trộm cắp là 4.435.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 118/CT-VKSNT ngày 26/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố Phạm Thành N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã giữ nguyên kết luận truy tố bị cáo Phạm Thành N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Bị cáo Phạm Thành N khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại, người làm chứng, xét thấy việc vắng mặt của những người này không trở ngại cho việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người này theo quy định tại Điều 292 và 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hình sự.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Theo cáo trạng truy tố cho thấy, tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng truy tố phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ để xác định: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 09/10/2020, tại nhà số 01 đường Đầu B, thôn Phú V 2, xã Vĩnh T, thành phố Nha T, Phạm Thành N đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime 32GB, 01 tivi hiệu Samsung Smart 48 inch cùng 01 điều khiển tivi có tổng giá trị là 4.435.000 đồng của chị Nguyễn Thị Hồng L khi tài sản này không có người trông coi.
Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, là vi phạm pháp luật, nhưng do coi thường pháp luật, muốn có tiền chi tiêu cá nhân nên vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương.
Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, từng bị kết án về tội trộm cắp tài sản đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên cần phải xử lý nghiêm khắc. Đối với bản án số 72/HSST ngày 21- 22/7/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 06 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” và “Cướp tài sản công dân”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/9/2000, được miễn tiền án phí và khoản tiền sung quỹ nhà nước nhưng phần trách nhiệm dân sự đối với bà Nguyễn Thị Tùy T và ông Phùng Hoài N bị cáo chưa thực hiện. Theo biên bản xác minh ngày 19/5/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang cho rằng: Từ ngày 08/3/1999 đến nay, Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang chưa nhận được đơn yêu cầu thi hành án của bà Nguyễn Thị Tùy T và ông Phùng Hoài N (là những người bị hại trong bản án nêu trên) nên chưa có căn cứ ra quyết định thi hành án đối với bị cáo Phạm Thành N. Do đó, thời hiệu thi hành án đối với bà Nguyễn Thị Tùy T và ông Phùng Hoài N vẫn còn nên bản án số 72/HSST ngày 21-22/7/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đối với bị cáo đến nay vẫn chưa được xóa án tích. Vì vậy, hành vi phạm tội lần này cần phải áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản trộm cắp đã trả lại cho bị hại nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần tuyên bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt cũng đảm bảo mục đích của hình phạt, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật và đủ tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại vắng mặt tại phiên tòa nên cần tách ra giải quyết riêng trong một vụ án dân sự khi có đơn yêu cầu.
[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: 01 (một) điện thoại di động Samsung Duos, màu đen, số thuê bao 05640545xx, mặt phía sau bị rạn (đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong), đây là tài sản cá nhân của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.
Vật chứng được giao nhận theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Thành N.
[2] Xử phạt: Bị cáo Phạm Thành N 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ vào thời gian tạm giữ là từ ngày 09/10/2020 đến ngày 19/10/2020.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại vắng mặt tại phiên tòa nên cần tách ra giải quyết riêng trong một vụ án dân sự khi có đơn yêu cầu.
[4] Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên trả cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động Samsung Duos, màu đen, số thuê bao 05640545xx, mặt phía sau bị rạn (đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong), theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang.
[5] Về án phí:Áp dụng Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 139/2021/HS-ST
Số hiệu: | 139/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về