Bản án về tội trộm cắp tài sản số 130/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 130/2021/HS-PT NGÀY 16/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 160/2021/TLPT-HS, ngày 06-10-2021 đối với bị cáo Hà Thị Kiều O cùng đồng phạm do kháng cáo của các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 43/2021/HS-ST; ngày 18-8-2021 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.

Bị cáo kháng cáo:

1. Họ và tên: Hà Thị Kiều O (tên gọi khác: Kiều); sinh năm 1986 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn PL, xã PH, huyện ĐT, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn T, sinh năm 1956 (đã chết) và bà Hoàng Thị M, sinh năm 1958, hiện cư trú tại: Thôn PL, xã PH, huyện ĐT tỉnh Lâm Đồng; có chồng là: Phạm Ngọc T, sinh năm 1980 (đã ly hôn); có 04 con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27-9-2020 đến ngày 02-10-2020 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

2. Họ và tên: Phan Thị C (tên gọi khác: Hoa); sinh năm 1975 tại tỉnh Nghệ An; nơi ĐKHKTT: Thôn BR, xã ĐN’D, huyện ĐS, tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Thôn QH, xã HT, huyện ĐT, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đức S (đã chết) và bà Nguyễn Thị T (đã chết); có chồng là: Trần Khắc Tr, sinh năm 1972; có 02 con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19- 10-2020 đến ngày 28-10-2020 bị áp dụng biện pháp tạm giam và được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 12-11-2020. Có mặt.

3. Họ và tên: Nguyễn Văn T; sinh năm 1988 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn PN, xã HT, huyện ĐT, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964, hiện cư trú tại: Thôn YB, xã QY, huyện QX, tỉnh Thanh Hóa; có vợ là: Bùi Thị G, sinh năm 1987, hiện cư trú tại: xã XĐ, huyện TL, thành phố Hải Phòng; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18-10-2020 đến ngày 27-10-2020 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

Trong vụ án này còn có người bị hại ông Nguyễn Văn H, ông Lê Đình D; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Duy C không kháng cáo; không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Giữa các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C và Nguyễn Văn T có quan hệ quen biết với nhau. Trong các ngày 25-9-2020 và 27-9-2020 các bị cáo đã thực hiện các lần trộm cắp tài sản:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 25-9-2020, Hà Thi Kiều O, gọi điện thoại rủ Phan Thị C đi hái trộm cà chua về bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì C đồng ý. Thực hiện ý định trên, O điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát: 49E1 1396.76 còn C điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát: 49P3 - 6829 đến vườn cà chua của ông Nguyễn Văn H tại thôn Sao Mai, xã Ka Đơn, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Lúc này, vườn cà chua không có người trông coi, C và O đi vào vườn hái cà chua bỏ vào các túi nilon đã chuẩn bị sẵn từ trước. Sau đó, Phan Thị C gọi điện thoại cho Nguyễn Văn T nói đang đi hái cà chua ở Ka Đơn, hỏi T có hái cà chua thì đến hái cùng và nhờ T chở cà chua về nhà thì cũng T đồng ý. Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, T điều khiển xe ô tô mang biển kiểm soát 49C-006.09 đến vườn cà chua của ông Hoàng hái được 02 túi cà chua cùng với O và C. Khi hái xong, T bỏ tất cả 17 túi cà chua hái trộm được lên xe ô tô chở về nhà T tại xã Hiệp Thạnh, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Tại nhà T, O lấy 07 túi cà chua, còn Cúc lấy 10 túi cà chua đi bán được 1.750.000đ và chia cho T 1.000.000đ tiền xe nhưng Trung không nhận vì trước đó còn nợ tiền của C.

Lần thứ hai: Ngày 27-9-2020, O tiếp tục gọi điện thoại rủ C đi hái trộm cà chua tại vườn của ông H thì C đồng ý. Đồng thời, C cũng nói với T khi nào C gọi thì đến chở số cà chua về nhà thì Trung cũng đồng ý. Khoảng 14 giờ cùng ngày, O và C đến vườn cà chua của ông H hái được 17 túi nylon cà chua thì bị phát hiện, O bị bắt quả tang cùng tất cả tang vật còn C chạy thoát đến ngày 19- 10-2020 thì bị bắt, còn Nguyền Văn T khi đến gần hiện trường, thấy đông người nghĩ rằng O và C đã bị bắt nên bỏ đi và quay lại đón C tại cây xăng xã Ka Đơn.

Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Văn T vào ngày 18-10-2021 còn bị bắt quả tang cùng 58 kg hành lá, trong đó có 38 kg hành lá bị cáo khái trộm cắp được tại vườn của ông Lê Đình D tại thôn 2, xã Đạ Ròn, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng và 20 kg hành lá loại ngắn bị cáo khai mót được tại khu vườn bên cạnh.

Tại Kết luận định giá tài sản số 44/2020/KL/HĐĐGTS ngày 30-9-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định 375,5 kg cà chua trái loại xô thời điểm chiếm đoạt ngày 27-9-2020 có giá trị là 5.632.500đ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 67/2020/KL/HĐĐGTS ngày 23-10-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định 360 kg cà chua trái loại xô thời điểm chiếm đoạt ngày 25-9-2020 có giá trị là 5.400.000đ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 68/2020/KL/ĐGTS ngày 02-11-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định 38 kg hành lá đang thu hoạch tại thời điểm ngày 02-11-2020 có giá trị là 1.026.000đ.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKS-ĐD ngày 02-02-2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng truy tố truy tố các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại bản án số 43/2021/HS-ST; ngày 18-8-2021 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng:

Tuyên bố các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Hà Thị Kiều O 09 (chín) tháng tù, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 27-9-2020 đến ngày 02-10- 2020 nên còn lại 08 (tám) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù buộc bị cáo phải chấp hành. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Phan Thị C 06 (sáu) tháng tù, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 19-10-2020 đến ngày 12-11- 2020 nên còn lại 05 (năm) tháng 05 (năm) ngày tù buộc bị cáo phải chấp hành. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng tù, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 18-10-2020 đến ngày 27-10- 2020 nên còn lại 05 (năm) tháng 20 (hai mươi) ngày tù buộc bị cáo phải chấp hành. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Bản án còn tuyên xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 23-8-2021 các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C kháng cáo xin hưởng án treo.

Ngày 23-8-2021 bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã xét xử; không thắc mắc, khiếu nại gì thêm; các bị cáo giữ nguyên kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết nào mới.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ lời khai của các bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định:

Trong các ngày 25-9-2020 và 27-9-2020 các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T đã cùng nhau thực hiện 02 lần trộm cắp cà chua tại vườn của ông Nguyễn Văn H tại thôn Sao Mai, xã Ka Đơn, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Tổng khối lượng cà chua trộm cắp được là 735,5 kg có giá trị 11.032.500đ. Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Văn T vào ngày 18-10-2021 còn bị bắt quả tang cùng 58 kg hành lá, trong đó có 38 kg hành lá bị cáo khái trộm cắp được tại vườn của ông Lê Đình D tại thôn 2, xã Đạ Ròn, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng và 20 kg hành lá loại ngắn bị cáo khai mót được tại khu vườn bên cạnh.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.

Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ; không những gây thiệt hại về tài sản mà còn làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất bình thường của nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương; gây nghi ngờ mất đoàn kết trong nội bộ quần chúng nhân dân.

Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Hà Thị Kiều O 09 tháng tù, xử phạt bị cáo Phan Thị C 06 tháng tù, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 tháng tù là đúng người, đúng tội.

Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T giữ nguyên kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết nào mới nên kháng cáo không có cơ sở để xem xét chấp nhận như ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tại phiên toà là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về án phí: Các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố các bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Hà Thị Kiều O 09 (chín) tháng tù, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 27-9-2020 đến ngày 02-10- 2020 nên còn lại 08 (tám) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù buộc bị cáo phải chấp hành. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Phan Thị C 06 (sáu) tháng tù, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 19-10-2020 đến ngày 12-11- 2020 nên còn lại 05 (năm) tháng 05 (năm) ngày tù buộc bị cáo phải chấp hành. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng tù, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 18-10-2020 đến ngày 27-10- 2020 nên còn lại 05 (năm) tháng 20 (hai mươi) ngày tù buộc bị cáo phải chấp hành. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Buộc mỗi bị cáo Hà Thị Kiều O, Phan Thị C, Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 130/2021/HS-PT

Số hiệu:130/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;