Bản án về tội trộm cắp tài sản số 127/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 127/2022/HS-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 04 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 50/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 04 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 04 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh H (C), sinh ngày 26/04/1979. Tại G, tỉnh Kiên Giang; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Số nhà 85 đường D, phường V, thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đ (đã chết) và bà Trịnh Thị Ánh T; Em ruột lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1985; Vợ: Lầu Cẩm P (Đã chết); Con có 01 người, sinh năm 2018.

Tiền sự:

- Ngày 23/7/2021, bị Công an phường V, thành phố G xử phạt 750.000 đồng, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa hết thời gian được coi là xóa tiền sự.

- Ngày 22/8/2021, bị Công an phường V, thành phố G xử phạt 1.000.000 đồng, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa hết thời gian được coi là xóa tiền sự.

Tiền án: Ngày 25/05/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố G xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 13/03/2021 chấp hành xong hình phạt, chưa xóa án tích.

Nhân thân:

- Ngày 09/07/2008, bị Ủy ban nhân dân thành phố G áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đến ngày 20/06/2010 chấp hành xong (Xóa tiền sự).

- Ngày 07/12/2010, bị Ủy ban nhân dân thành phố G áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đến ngày 18/03/2013 chấp hành xong (Xóa tiền sự).

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20/01/2022.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Đỗ Phúc T1, sinh năm 1987 (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 8/77, tổ 10, khu phố K, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

- Người làm chứng:

+ Nguyễn Văn T2, sinh năm 1994 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 10, khu phố K, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

+ Nguyễn Thị K, sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 8/77, tổ 10, khu phố K, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thanh H là người không có nghề nghiệp. Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 20/01/2022, H đi bộ trên các tuyến đường thành phố G để tìm tài sản sơ hở lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài. Đến 12 giờ 30 phút cùng ngày, H đi đến bãi cát thuộc tổ 11A, khu phố K, phường H, thành phố G phát hiện xe mô tô hiệu Sirius màu xanh đen, biển kiểm soát 68X1-279.62 của anh Đỗ Phúc T1 đang đậu không có người trông coi nên H lén lút dẫn xe ra khỏi bãi cát, được khoảng 50m thì đậu tại bụi cây ven đường Cao Văn Lầu thuộc phường H, thành phố G; H dùng tay bẻ bửng xe rồi bứt dây mát để đạp xe nổ máy tẩu thoát nhưng xe không nổ máy được. Ngay lúc này H bị ông T1 và ông Nguyễn Văn T2 và Công an phường H bắt quả tang cùng vật chứng. Đến ngày 28/01/2022, H bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố và tạm giam để điều tra.

Bị cáo Nguyễn Thanh H đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh H đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

* Vật chứng trong vụ án:

- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius màu xanh đen, biển kiểm soát 68X1-279.62, số máy 5C6J198163, đã qua sử dụng.

* Tại bản kết luận về việc định giá tài sản số 176/KL- HĐĐGTS, ngày 26/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố G xác định: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius màu xanh đen, biển kiểm soát 68X1-279.62, số máy 5C6J198163, đã qua sử dụng, thời điểm định giá ngày 20/01/2022 có giá trị là 4.600.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm nghìn đồng) (bút lục số 85-86).

Về trách nhiệm dân sự:

Ông Đỗ Phúc T1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số: 70/CT-VKSRG, ngày 05 tháng 04 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra Công an thành phố G và bản cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 53; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H từ 12 (Mười hai) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Hoàn trả cho ông Đỗ Phúc T1 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA , loại xe Sirius màu xanh đen, biển kiểm soát 68X1-279.62, số máy 5C6J198163, đã qua sử dụng, đã trả xong (Bút lục 95, 96)

Về trách nhiệm dân sự:

Ông Đỗ Phúc T1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm, đề nghị không xem xét.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Thanh H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu; lời nhận tội trên phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, của những người tham gia tố tụng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Bị cáo Nguyễn Thanh H đi bộ trên các tuyến đường thành phố G để tìm tài sản sơ hở lấy trộm. Đến 12 giờ 30 phút ngày 20/01/2022, bị cáo H phát hiện rồi lén lút lấy trộm 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius màu xanh đen, biển kiểm soát 68X1-279.62 của ông Đỗ Phúc T1 đang đậu tại bãi cát thuộc Tổ 11, khu phố K, phường H, thành phố G, bị cáo H đang đạp xe cho nổ máy để tẩu thoát thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. (Qua định giá tài sản có giá trị là 4.600.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm nghìn đồng).

Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Đinh Ngọc Thành phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như kết luận của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên bị áp dụng tính tiết tăng nặng là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù bị cáo ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo lợi dụng sự sơ hở của bị hại bất chấp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống gia đình bị hại, làm mất an ninh, trật tự ở địa phương và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Qua xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, bị cáo nhiều lần bị xử phạt vi hành hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chưa xóa tiền sự); 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích), ngoài ra, bị cáo còn bị Ủy ban nhân dân thành phố G áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở chữa bệnh 02 lần nay lại tiếp tục phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo mức án tương xứng bằng hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đã cho thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G, tỉnh Kiên Giang đã trao trả vật chứng của vụ án là tài sản của bị hại ông Đỗ Phúc T1 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius màu xanh đen, biển kiểm soát 68X1-279.62, số máy 5C6J198163, đã qua sử dụng, đã trả xong. Xét thấy việc xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, không có ai khiếu nại về việc xử lý vật chứng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Ông Đỗ Phúc T1 đã nhận lại đầy đủ tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gì thêm, nên không xem xét.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G đề nghị tại bản luận tội đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 53; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Nguyễn Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Thanh H mức án 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 20/01/2022).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; buộc bị cáo Nguyễn Thanh H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/04/2022). Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 127/2022/HS-ST

Số hiệu:127/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;