Bản án về tội trộm cắp tài sản số 116/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 116/2022/HS-ST NGÀY 01/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 1 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 108/2022/HSST ngày 18/7/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2022/QĐXXST-HS ngày 02/8/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức T, sinh năm 1989 tại T N; Nơi đăng ký thường trú và cư trú: Xóm T T, xã N N, huyện V N, tỉnh T N; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Khánh D và bà Ma Thị H; Vợ: Luân Thị Ph L (đã ly hôn); Con: có 01 con, sinh năm 2013; Theo Danh bản, chỉ bản số 157 do Công t quận Tây Hồ lập ngày 29/4/2022; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ ngày 20/4/2022 đến ngày 29/4/2022, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Bhại: Chị Đỗ Thị L, sinh năm 1998; ĐKHKTT: Thôn Cẩm L, xã Tự C, huyện L L, TP L ., vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Cao T, ông T Văn T-Luật sư thuộc Văn luật sư số ... Thành phố Hà Nội, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đức T là giáo tên dạy bơi tại bể bơi Greenpool, địa chỉ: 20 Thụy Khuê, phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Khoảng 14 giờ 00' ngày 13/4/2022, T vào . nghỉ của nhân tên thì thấy 01 chiếc điện thoại Iphone 11 Promax, màu xanh rêu, 256GB, số Imei: 353895100485461 của chị Đỗ Thị L (là giáo tên dạy bơi tại bể bơi trên) để trong chỗ nghỉ của nhân viên. Thấy sơ hở, T đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên. T kiểm tra, thấy điện thoại tắt chuông, T cầm và giấu chiếc điện thoại vào trong ngăn tủ để đồ, dùng 01 quyển sách để lên trên che lại, sau đó làm việc bình thường. về phía chị L sau khi phát hiện bị mất điện thoại đã hỏi mọi người xung quanh và hỏi T có biết điện thoại của chị đâu không, T và mọi người bu trả lời không biết.

Ngày 14/4/2022, khi T đến bể bơi Greenpool làm việc có đi qua vị trí chị L đang nói chuyện với chị Đồng Thị L H (SN 1998; HKTT: Nam Bình, Đăk Song, Đăk Nông là giáo tên dạy bơi tại bể bơi), chị L kể cho chị H biết việc mình bị mất điện thoại, lúc đó thấy T đi qua chị H đã hỏi T có thấy điện thoại của chị L đâu không, T trả lời là không biết.

Sau khi bị mất điện thoại, chị L đã khóa icloud và cài đặt số điện thoại khẩn cấp gồm số 0378045039 và 088822154. Do chị L cài đặt mật khẩu T không mở được nên đã lên mạng internet tìm kiếm được cửa hàng sửa chữa điện thoại của anh Nguyễn Công T (SN 1987; ĐKHKTT: Tổ 31 Thịnh Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội). Ngày 18/4/2022, T gọi từ số điện thoại 09846121 của T đến số điện thoại 0963003300 của anh T, hỏi anh T có mở được khóa mật khẩu điện thoại Iphone không, anh T bảo T mang điện thoại đến 250/19 Tân Mai, Hoàng Mai, Hà Nội gặp anh. Tại đây, T đưa cho anh T điện thoại T trộm cắp của chị L trước đó, thuê anh T mở mật khẩu (T nói chiếc điện thoại này là của người yêu T bị quên mật khẩu). Khi anh T kiểm tra điện thoại do T đưa thì thấy có số điện thoại liên hệ khẩn cấp và đã gọi vào số 0378045039 do L cài đặt từ trước (là số điện thoại của anh Ngô Văn D, SN 1994; DKHKTT: N N, V N, T N, đồng nghiệp của L) nhưng không liên lạc được, anh T gọi tiếp đến số điện thoại T đọc cho anh T (không nhớ số điện thoại) cũng không liên lạc được. Sau đó nghi điện thoại trên là tài sản trộm cắp mà có, anh T đưa lại cho T và hẹn T hôm khác đến. T cầm lại điện thoại ra về, lúc đó th T đã quay và chụp lại hình ảnh T cầm chiếc điện thoại đi về. Tối ngày 18/4/2022, anh T tìm được tài khoản zalo Ngô Văn D từ số điện thoại 0378045039 đã nhắn tin, nói chuyện với anh D. Qua nói chuyện, anh T đã gửi cho anh D hình ảnh chiếc điện thoại di động T thuê anh mở khóa, anh D xác nhận được chủ sở hữu của của chiếc điện thoại trên. Anh T tiếp tục tìm tài khoản zalo thì thấy tài khoản zalo và liên hệ được với chị Đỗ Thị L và kể lại sự việc trên cho chị L, đồng thời gửi cho chị L hình ảnh T và chiếc điện thoại di động, chị L xác nhận đó là điện thoại chị bị mất.

Ngày 19/4/2022, chị L đã đến công an phường Thụy Khuê để trình báo việc bị mất điện thoại.

Sau khi phát hiện người mang điện thoại đi phá khóa là T, vì chưa thể khẳng định chắc chắn T là người đã trộm cắp điện thoại của chị L nên anh D gọi điện cho chị Hoàng Thị Bích L (SN 1984, ĐKHKTT: tổ 1 phường B B, Long Biên, Hà Nội là nhân viên của bể bơi Greenpool) báo sự việc trên cho L biết. Chị L đã gọi điện cho T hỏi T có giữ điện thoại của chị L không và khuyên T nếu có giữ thì mang trả lại cho L nhưng lúc này T chưa thừa nhận mình lấy điện thoại của chị L. Chị L đã gọi điện báo anh Nguyễn Văn H (SN 1990, ĐKHKTT: Ngọc L, Cẩm Giàng, L D là quản lý nhân viên của bể bơi Greenpool). Anh H đã gọi T ra hỏi T về chiếc điện thoại của chị L lúc đó T đã thừa nhận việc đã lấy trộm điện thoại của chị L. Anh H khuyên T đem trả lại cho chị L.

Ngày 20/4/2022, T đã trả lại chiếc điện thoại trên cho chị L và đến Công t phường Thụy Khuê để đầu thú. Chị L sau khi được T trả điện thoại đã tự nguyện giao nộp lại cho cơ quan Công an.

Vật chứng thu giữ: Thu giữ của chị L: 01 chiếc điện thoại di động hiệu IPhone màu xanh, đã qua sử dụng, không có số Imei trên vỏ.

- Thu giữ của anh T: 01 USB màu trắng bên trong có đoạn video và hình ảnh được trích từ video trên.

Tại kết luận định giá tài sản số 74/KL-HĐĐG ngày 20/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản t tụng hình sự-UBND quận Tây Hồ, xác định: 01 chiếc ĐTDĐ IPhone 11 promax 256 GB trị giá 13.000.000đồng (mười ba triệu đồng).

Tại cơ quan điều tra (CQĐT), T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai của T phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của nhân chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án.

Đối với 01 chiếc ĐTDĐ hiệu IPhone màu xanh thu giữ của chị Đỗ Thị L. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là chị L. Ngày 28/4/2022, CQĐT đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc điện thoại trên cho chị L. Chị L đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Nguyễn Đức T.

Cáo trạng số 105/CT-VKS ngày 14/7/2022 của VKSND quận Tây Hồ đã truy tố Nguyễn Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Đại diện VKSND quận Tây Hồ luận tội: Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, kết luận bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 về án, lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương để quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự, bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì nên không xét. Bị cáo phải nộp án phí HSST. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày qua điểm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật còn hạn chế, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, do thiếu hiểu biết nên nhất thời phạm tội, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra bị cáo tự nguyện ra đầu thú, tài sản bị cáo trộm cắp bị cáo đã tự giác trả lại cho bị bị, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nên đề nghị áp dụng các tình tiết quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị Cáo có nơi cư trú rõ ràng, đề nghị xử phạt bị cáo 3 tháng cải tạo không giam giữ, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của CQĐT công an quận Tây Hồ, Điều tra tên, VKSND quận Tây Hồ, Kiểm sát tên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện hợp pháp.

Về sự vắng mặt của bị hại: Chị Đỗ Thị L đã được triệu tập phiên tòa hợp lệ nhưng vắng mặt. Xét thấy, chị L có lời khai chị đã được trả lại chiếc điện thoại do T trộm cắp, chị không có yêu cầu đề nghị gì khác, việc chị L vắng mặt tại phiên tòa không gây ảnh hưởng đến việc xét xử, do đó HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 292 BLTTHS xét xử vắng mặt bị hại.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại CQĐT và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14 giờ 00' ngày 13/4/2022, tại số 20 Thụy Khuê, phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội, Nguyễn Đức T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Đỗ Thị L 01 chiếc ĐTDĐ IPhone 11 promax 256 GB, đã qua sử dụng có trị giá 13.000.000đồng (mười ba triệu đồng).

Cáo trạng của VKSND quận Tây Hồ truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Về tính chất của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo: HĐXX xét thấy:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trong khu vực, gây mất lòng tin trong quần chúng nhân dân, bị cáo thực hiện hành vi dưới hình thức lỗi cố ý, mục đích thu lợi bất chính. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử và áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và ngăn ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại CQĐT và tại phiên tòa bị cáo t khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản trộm cắp đã thu hồi trả lại cho bị hại, quá trình điều tra bị cáo tự nguyện ra đầu thú, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng, quá trình điều tra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nơi cư trú rõ ràng. Quá trình sinh sống tại địa ph bị cáo chấp hành tốt các quy định của nhà nước và địa phương. Bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật hạn chế, nhất thời phạm tội, là lao động chính trong gia đình. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. HĐXX thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù vì bị cáo có khả năng tự cải tạo nên cho bị cáo được cải tạo tại cộng đồng xã hội để bị cáo có cơ hội trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện sự khoan hồng của nhà nước đối với những người phạm tội lần đầu, biết ăn năn hối cải.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì khác nên không xét.

Lưu hồ sơ: 01 USB màu trắng, 01 hình ảnh màn hình điện thoại do anh T giao nộp.

Bị cáo phải nộp án phí và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Các Điều 331, 333, 337 Bộ luật tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 12(mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Đức T về Ủy ban nhân dân xã N N, huyện V N, tỉnh T N để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

103
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 116/2022/HS-ST

Số hiệu:116/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;