TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 103/2021/HS-ST NGÀY 21/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 21 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Đỗ Ngọc - Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1993; tại: Lâm Đồng; nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố T, thị trấn N, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố T, thị trấn N, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đình Tĩnh, sinh năm: 1968 và bà Trần Thị Xuân, sinh năm: 1973; gia đình bị cáo có hai anh em lớn nhất sinh năm 1993 và nhỏ nhất sinh năm 1995; Vợ Ngô Ngọc Mai P, sinh năm: 1994; con Đỗ Ngọc Quỳnh Anh, sinh năm: 2019; tiền án: Ngày 19-9-2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 27-9-2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 24-5-2019 bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 06-6-2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt.
2. Họ và tên: Đỗ Đình B - Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1995; tại: Lâm Đồng; nơi ĐKNKTT: Tổ dân phố T, thị trấn N, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố T, thị trấn N, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đình Tĩnh, sinh năm: 1968 và bà Trần Thị Xuân, sinh năm: 1973; gia đình bị cáo có hai anh em lớn nhất sinh năm 1993 và nhỏ nhất sinh năm 1995; tiền án: Ngày 28-12-2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 24-5-2019 bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 06-6-2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt.
- Người bị hại:
+ Ông K’ , sinh năm: 1959 Địa chỉ: Thôn R, xã P, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
+ Ông Lê Thanh H, sinh năm: 1976 Địa chỉ: Thôn Phú Hòa, xã P, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Ngô Ngọc Mai P, sinh năm: 1994 Địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn N, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
+ Anh Phạm Minh H , sinh năm: 1995 Địa chỉ: Tổ dân phố Chi Lăng 2, thị trấn N, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
- Những người làm chứng:
+ Ông K’T, sinh năm: 1965 Địa chỉ: Thôn R, xã P, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
+ Ông K’T, sinh năm: 1973 Địa chỉ: Thôn R, xã P, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 06-6-2021, Đỗ Ngọc N chở theo em trai là Đỗ Đình B, bằng xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, mang BKS: 49D1-660.48 đi vào khu vực xã P tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến đoạn đường nhựa thuộc thôn Ryông Tô, xã P, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng thì Nam và Ban thấy trên đồi cỏ, cách đường nhựa khoảng 50m có 01 con bò cái, loại bò lai Sind của ông K’Linh, sinh năm 1959, HKTT: thôn Ryông Tô, xã P, huyện Lâm Hà. Quan sát thấy không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp con bò này, Nam và Ban đi vào đường đất gần đó để cất xe mô tô, sau đó cả hai đi lên đồi chỗ con bò. Tại đây, Ban đến tháo dây thừng đang buộc con bò này với gốc cây và dắt xuống hướng đường đất để tránh sự phát hiện của người dân. Đi được khoảng 5m thì Nam đưa Ban chìa khóa để đi lấy xe, còn Nam dắt bò theo đường đất. Khi Nam dắt con bò trên đi được khoảng 01 km thì bị người dân phát hiện vây bắt được cả Nam và Ban, sau đó giao cho Công an xã P, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Tại cơ quan Công an, Nam và Ban đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Ngoài ra quá trình điều tra, Đỗ Ngọc N còn khai nhận: Vào khoảng 01 giờ ngày 27-5-2021, Nam một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, mang BKS: 49D1-660.48 đến gần nhà ông Lê Thanh H, sinh năm 1976 HKTT: thôn Phú Hòa, xã P, huyện Lâm Hà cất xe (cách nhà ông Hiệp khoảng 100m) rồi một mình đi vào chuồng bò nhà ông Hiệp dắt trộm 01 con bò cái, loại bò Brahaman. Sau đó Nam dắt con bò trên đến chỗ vị trí cất xe mô tô và gọi điện cho Phạm Minh H, sinh năm 1995, HKTT: TDP Chi Lăng 2, TT Nam Ban, huyện Lâm Hà thuê Hiếu vào chở con bò này về nhà Nam với giá 350.000 đồng. Đến ngày 28-5-2021, Nam bán con bò này cho ông Qúy - Nguyệt nhà ở xã Liên Hiệp, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng với giá 15.000.000 đồng, số tiền này Nam tiêu sài cá nhân hết.
Tang vật thu giữ: Một xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade mang BKS: 49D1-660.48.
Tại kết luận số 50/HĐĐG ngày 08 tháng 6 năm 2021 và số 67/HĐĐG ngày 03 tháng 8 năm 2021 của Hội đồng đinh giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng kết luận: 01 con bò cái, loại bò lai Sind của ông K’ L có giá trị là 29.400.000 đồng (Hai mươi chín triệu bốn trăm ngàn đồng) và 01 con bò cái, loại bò Brahaman của ông Lê Thanh H có giá trị là 69.207.000 đồng (Sáu mươi chín triệu hai trăm lẻ bảy ngàn đồng).
Về xử lý vật chứng: Ngày 14-9-2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà ra Quyết định trả lại tài sản bằng hình thức trao trả cho bà Ngô Ngọc Mai P một xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade mang BKS: 49D1-660.48.
Về trách nhiệm dân sự: Ông K’Linh đã nhận được tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Ông Lê Thanh H yêu cầu Đỗ Ngọc N bồi thường số tiền 69.207.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 27-9-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng để xét xử các bị can Đỗ Ngọc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khỏa 1, điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự và bị can Đỗ Đình B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, không thắc mắc hay khiếu nại gì về bản cáo trạng. Lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Người bị hại ông Lê Thanh H xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đỗ Ngọc N.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Đỗ Ngọc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khỏan 1, điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự và bị can Đỗ Đình B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc N từ 05 năm đến 06 năm tù.
Áp dụng khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Đình B từ 03 năm đến 04 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông K’Linh đã nhận được tài sản không có yêu cầu gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Buộc Đỗ Ngọc N phải bồi thường cho ông Lê Thanh H số tiền 69.207.000 đồng.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đ được thẩm tra tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh lu n tại phiên tòa trên cơ s em t đ y đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng t ử nh n định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 06-6-2021, tại thôn Ryông Tô, xã P, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; Đỗ Ngọc N và Đỗ Đình B đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 con bò cái, loại bò lai Sindcó giá trị là 29.400.000 đồng (Hai mươi chỉn triệu bốn trăm ngàn đồng) của ông K’ L.
Ngoài hành vi trên riêng đối với Đỗ Ngọc N còn khai nhận, vào ngày 27- 5-2021 tại thôn Phú Hòa, xã P, huyện Lâm Hà đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 con bò cái, loại bò Brahaman có giá trị là 69.207.000 đồng (Sáu chín triệu hai trăm lẻ bảy ngàn đồng) của ông Lê Thanh H.
Hành vi của các bị cáo Đỗ Ngọc N và Đỗ Đình B đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đỗ Ngọc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khỏa 1, điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự và bị cáo Đỗ Đình B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự .
Đúng với kết luận luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng giữ quyền công tố tại phiên tòa hôm nay.
[3] Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được luật pháp nhà nước ta bảo vệ, cụ thể trong vụ án này tài sản của người bị hại ông K’Linh và ông Lê Thanh H bị xâm phạm.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì tham lam, muốn có tiền tiêu xài không phải bằng sức lao động của mình, các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt. Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, các bị cáo phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân các bị cáo; nhằm giáo dục riêng các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4 Về đồng phạm: Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Đỗ Ngọc N là người khởi xướng, rủ rê, lôi kéo bị cáo Đỗ Đình B cùng phạm tội; bị cáo Đỗ Đình B sau khi nghe sự rủ rê, lôi kéo của bị cáo Nam đã đồng ý và cùng thực hiện hành vi phạm tội với bị cáo Nam.
Ngoài ra quá trình điều tra bị cáo Đỗ Ngọc N còn khai nhận vào khoảng cuối tháng 05-2021 bị cáo Nam một mình đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 con bò cái, loại bò Brahaman có giá trị là 69.207.000 đồng (Sáu chín triệu hai trăm lẻ bảy ngàn đồng) của ông Lê Thanh H, sau khi bán được tài sản trộm cắp bị cáo Nam đã tiêu xài cá nhân hết.
[5] Xét thấy, bị cáo Đỗ Ngọc N vào ngày 19-9-2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 27-9-2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và đến ngày 24-5-2019 bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Nay lại tiếp tục phạm tội, mặt khác bị cáo Nam chiếm đoạt tài sản giá trị trên 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; do đó bị cáo bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Đối với bị cáo Đỗ Đình B vào ngày 28-12-2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 24-5-2019 bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Nay lại tiếp tục phạm tội do đó bị cáo bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Do đó, cần xử phạt nghiêm khắc, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo biết tuân thủ pháp luật và nhằm đấu tranh phòng ngừa chung.
[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo Đỗ Ngọc N phạm tội 02 lần nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Đỗ Đình B không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ là: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Đỗ Ngọc N, Đỗ Đình B thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 của Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên Tòa người bị hại ông Lê Thanh H đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đỗ Ngọc N nên bị cáo Nam được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 của Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta.
[7] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo làm nông thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Đối với hành vi mua bò của ông Quý Nguyệt với bị cáo Đỗ Ngọc N.
Quá trình điều tra cơ quan điều tra chưa xác minh được thân nhân lai lịch của các đối tượng trên nên chưa đủ căn cứ để xử lý. Do đó, tiếp tục đề nghị cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ để xử lý sau.
Đối với anh Phạm Minh Hkhi nhận chở bò thuê cho bị cáo Đỗ Ngọc N. Quá trình điều tra ông Hiếu không biết được đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý đối với anh Phạm Minh H.
Đại diện viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp, có căn cứ pháp luật.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông K’Linh đã nhận được tài sản không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.
Đối với ông Lê Thanh H yêu cầu bị cáo Đỗ Ngọc N bồi thường số tiền 69.207.000 đồng, tại phiên Tòa Đỗ Ngọc N đồng ý bồi thường số tiền trên cho ông Hiệp nên cần ghi nhận.
[9] Về ử lý v t chứng: Đối với một xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade mang BKS: 49D1-660.48. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản đứng tên của chị Ngô Ngọc Mai P, bị cáo Đỗ Ngọc N tự lấy đi và chị Phương cũng không biết Nam lấy xe đi đâu, làm gì nên ngày 14-9-2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà ra Quyết định trả lại tài sản bằng hình thức trao trả cho bà Ngô Ngọc Mai P. Do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.
[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Đỗ Ngọc N, Đỗ Đình B phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1, điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Bị cáo Đỗ Ngọc N 05 năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 06-6-2021.
Áp dụng khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Bị cáo Đỗ Đình B 03 năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 06-6-2021.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
2.Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Buộc bị cáo Đỗ Ngọc N phải bồi thường cho ông Lê Thanh H số tiền 69.207.000 đồng (Sáu mươi chín triệu hai trăm lẻ bảy ngàn đồng).
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất các khoản tiền. Hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi xuất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Buộc bị cáo Đỗ Ngọc N phải chịu số tiền 3.460.000 đồng (ba triệu bốn trăm sáu mươi ngàn) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hánh án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 103/2021/HS-ST
Số hiệu: | 103/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về