Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Phan Vũ V, sinh năm 1993, tại Quảng Nam; Nơi cư trú: 91 C, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn K, sinh năm 1969 và bà Phạm Thị Thảo Tr, sinh năm 1972; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: ngày 22/11/2010 bị Công an phường 7, thành phố Đà Lạt, xử phạt vi phạm hành chính. Bị bắt tạm giam ngày 01/4/2022; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng; có mặt.

2. Phan Duy V1, sinh năm 1993, tại Quảng Nam; Nơi cư trú: 91 C, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn K, sinh năm 1969 và bà Phạm Thị Thảo Tr, sinh năm 1972; tiền án: không; tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 22/2020/QĐ-TA ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt; Bị bắt tạm giam ngày 01/4/2022;

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng;

có mặt.

- Bị hại: chị Liêng Hót K’L, sinh năm 2001; Nơi cư trú: tổ dân phố B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có mặt - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Cháu Phan Thị Tuyết Nh, sinh ngày 03/8/2004, Nơi cư trú: 91 C, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Phan Văn K, sinh năm 1969, Nơi cư trú: 91 C, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Vũ V, Phan Duy V1 là anh em ruột, cùng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Tối ngày 25/02/2022, Vũ V rủ Duy V1 cùng đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài, Duy V1 đồng ý. Vũ V mượn 01 xe máy biển kiểm soát 49AA-020.14 của em gái và tự chuẩn bị 01 tua vit, 01 khóa 10. Duy V1 điều khiển xe máy biển kiểm soát 49AA-020.14 chở Vũ V cùng đi từ thành phố Đà Lạt vào thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương. Khi đi trên đoạn đường Duy Tân, TDP Đăng Gia Dềt B, thị trấn Lạc Dương, Vũ V nhìn thấy có 01 chiếc xe mô tô YAMAHA, loại SIRIUS, biển kiểm soát 49B1- 061.69 dựng trước sân nhà người dân, Vũ V nói Duy V1 đứng ngoài đường cảnh giới để Vũ V vào lấy trộm chiếc xe. Vũ V đi bộ vào dắt chiếc xe mô tô đi ra ngoài đường rồi tiếp tục dắt xe đi đến đoạn đường vắng thì dừng lại, Vũ V dùng tua vit tháo ốp nhựa phía dưới đầu xe rồi tháo dây điện, chập điện nổ máy xe, Duy V1 dùng khóa 10 tháo biển kiểm soát của xe mô tô 49B1-061.69. Sau đó, Duy V1 điều khiển xe máy biển kiểm soát 49AA- 020.14, Vũ V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 49B1-061.69 chạy về thành phố Đà Lạt, trên đường đi, Vũ V đã vứt bỏ biển kiểm soát 49B1 – 061.69 và 01 chiếc khóa 10. Nhận được tố giác của bà Liêng Hót K’ L, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và xác định được Vũ V và Duy V1 là người đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô biển kiểm soát 49B1 – 061.69.

Biên bản xác định hiện trường ngày 01/4/2022 tại sân nhà của bà Liêng Hót K’ L tại đường Duy Tân, TDP Đăng Gia Dềt B, thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng: Phan Duy V1, Phan Vũ V tham gia khám nghiệm và xác định vị trí chiếc xe mô tô BKS 49B1 – 061.69 để trong sân Vũ V, Duy V1 đã trộm cắp. Kết luận xác định giá trị thiệt hại của tài sản số 09/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 01/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Lạc Dương đã xác định giá trị của xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS theo yêu cầu định giá số 05/YC-ĐTTH ngày 01/4/2022 của CQ Cảnh sát điều tra – Công an huyện Lạc Dương là 9.900.000 (chín triệu chín trăm nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 05/CT-VKSLD ngày 13/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Phan Vũ V và Phan Duy V1 về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo như đã khai báo ở Cơ quan điều tra như nội dung bản cáo trạng truy tố và lời trình bày tại phiên tòa hôm nay như nội dung vụ án được tóm tắt ở trên; các bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì nội dung bản cáo trạng, và không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Người bị hại trình bày: sau khi phát hiện mất xe chị đã trình báo cơ quan công an và biết được là do Vũ V và Duy V1 trộm cắp, hiện tại chị đã nhận lại chiếc xe máy bị mất và không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại; chị cũng không thắc mắc, khiếu nại gì nội dung bản cáo trạng, và không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày: tại phiên tòa hôm nay ông đại diện cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu các bị cáo bồi thường cũng như không thắc mắc, khiếu nại gì nội dung bản cáo trạng và không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phan Vũ V và Phan Duy V1 về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng số 05/CT-VKSLD ngày 13/6/2022 và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phan Vũ V từ 09 đến 15 tháng tù, bị cáo Phan Duy V1 từ 09 tháng đến 12 tháng tù; về trách nhiệm dân sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết; Về án phí đề nghị buộc các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo; bị hại; người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của các bị cáo: các bị cáo trình bày đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của chứng cứ, tài liệu và các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Các chứng cứ, tài liệu được thu thập và cung cấp theo đúng quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận: khoảng 24 giờ, ngày 25/02/2022, bị cáo Phan Vũ V rủ bị cáo Phan Duy V1 cùng nhau đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi đến đường Duy Tân, tổ dân phố Đăng Gia Dềt B, Duy V1 đứng ngoài cảnh giới để Vũ V lấy trộm xe mô tô YAMAHA, loại SIRIUS của bà Liêng Hót K’L để trước cửa nhà; Kết luận xác định giá trị thiệt hại của tài sản số 09/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 01/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Lạc Dương đã xác định giá trị của xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS là 9.900.000 (chín triệu chín trăm nghìn đồng). Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án; lời khai của bị hại và những người tham gia tố tụng khác đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Phan Vũ V và Phan Duy V1 đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành của tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do vậy cũng cần áp dụng cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về quyết định hình phạt: Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ các bị cáo biết rõ tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nếu ai xâm phạm không được sự đồng ý của chủ sở hữu sẽ bị pháp luật trừng trị thích đáng, trong khi đó các bị cáo là người có sức khỏe, có thể dùng sức khỏe của mình để tạo ra của cải, vật chất phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của bản thân các bị cáo, nhưng các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương.

Đối với bị cáo Phan Vũ V vừa là người khởi xướng, vừa là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đồng thời là người có nhân thân xấu, ngày 22/11/2010 Công an phường 7, thành phố Đà Lạt xử phạt vi phạm hành chính 375.000 đồng về hành vi “ném đá vào người khác”; bị cáo Phan Duy V1 là người giúp sức khi đồng ý cùng đi trộm cắp tài sản với Phan Vũ V, cảnh giới để Phan Vũ V thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và là người đang có tiền sự (quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 22/2020/QĐ-TA ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt); ngoài ra các bị cáo còn đang bị Cơ quan điều tra công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đang khởi tố, điều tra về hành vi trộm cắp tài sản tại địa bàn phường 7, thành phố Đà Lạt. Do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của các bị cáo và xét thấy cần thiết phải áp dụng một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm để cải tạo, giáo dục các bị cáo đồng thời mang tính phòng ngừa chung cho xã hội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có khả năng kinh tế, nên miễn hình phạt bổ sung phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa hôm nay người bị hại và người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8]. Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra Công an huyện Lạc Dương có thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, số máy 5C63512235, số khung: BY512184, không có biển kiểm soát. Sau khi xác minh đã xác định đây là tài sản hợp pháp của chị Liêng Hót K’L, CQĐT đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô này cho bà K’L theo quy định; Đối với 01 chiếc tua vít và 01 chiếc khóa 10 là những dụng cụ các bị cáo đã sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, do các bị cáo đã vứt trên đường đi và không xác định được vị trí nên không thu giữ được.

[9]. Về án phí và quyền kháng cáo: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo; bị hại; Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phan Vũ V, Phan Duy V1 phạm tội “Trộm cắp tài sản” 2. Căn cứ vào Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2.1. Xử phạt bị cáo: Phan Vũ V 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2022.

2.2. Xử phạt bị cáo: Phan Duy V1 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2022.

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung quy định tai khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Phan Vũ V và bị cáo Phan Duy V1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo, bị hại, Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;