TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 147/2022/HS-PT NGÀY 15/07/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC VÀ ĐÁNH BẠC
Trong các ngày 01, 08 và 15 tháng 7 năm 2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 172/2021/TLPT-HS ngày 22 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo Đặng Thị T và các bị cáo khác. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2021/HS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân Huyện D, tỉnh Bình Dương.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Đặng Thị T, sinh năm 1969 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: thợ may; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Đ, sinh năm 1938 (đã chết), con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1941; có chồng Trương Hữu D, sinh năm 1965; có 02 con, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/8/2021 cho đến nay;
2. Nguyễn Văn P, sinh năm 1966 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: viên chức (Trung tâm Y tế huyện D); trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1920 (đã chết) và bà Phạm Thị N, sinh năm 1922 (đã chết); có vợ tên Phạm Thị Bích V, sinh năm 1975; có 01 con sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/8/2021 cho đến nay;
3. Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1971 tại tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: nội trợ; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1928 (đã chết) và bà Trương Thị D, sinh năm 1931 (đã chết); có chồng tên Nguyễn Đình Đ, sinh năm 1967; có 01 con sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/8/2021 cho đến nay;
4. Hồ Hồng T1, sinh năm 1970 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: công chức (Thanh tra xây dựng - Sở Xây dựng tỉnh Bình Dương); trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn T, sinh năm 1917 (đã chết) và bà Trần Thị B, sinh năm 1927 (đã chết); có vợ tên Hoàng Thị Anh Đ, sinh năm 1972; có 01 con sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/8/2021 cho đến nay.
- Các bị cáo không kháng cáo:
1. Nguyễn Thị Mộng T2, sinh năm 1959 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1934 (đã chết) và bà Trương Thị L, sinh năm 1939 (đã chết); có chồng tên Nguyễn Việt Hoài K, sinh năm 1952; có 02 con, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/8/2021 cho đến nay;
2. Trương Thị K, sinh năm 1969 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: nội trợ; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Thanh V, sinh năm 1918 (đã chết) và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1930 (đã chết); có chồng tên Đoàn Quang H, sinh năm 1970 (chết năm 2021); có 02 con, lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 1998; tiền án; tiền sự: không; nhân thân: Bản án số 19/2011/HS-ST ngày 29/3/2011 của TAND huyện D xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “đánh bạc”; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/8/2021 cho đến nay.
Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra trong vụ án còn có 06 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 11 năm 2020, T2 quen biết với một người phụ nữ tên Bảo N (không rõ nhân thân, lai lịch) là chủ đề. Bảo N thỏa thuận với T2 dưới hình thức ghi số đề dựa theo kết quả xổ số kiến thiết của đài Miền Bắc và Miền Nam rồi giao lại cho Bảo N để hưởng tiền hoa hồng. Thông qua các mối quan hệ quen biết, bị cáo T2 thỏa thuận với các bị cáo T, T1 và Đoàn Quang H (hiện đã chết). T, T1, N và H được gọi chung là người ghi số đề cho người mua dựa theo kết quả xổ số kiến thiết của đài Miền Bắc và đài Miền Nam rồi giao lại cho bị cáo T2 để hưởng tiền hoa hồng.
Hình thức đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức ghi số đề như sau: người chơi sẽ cung cấp các thông tin mà họ lựa chọn về đài xổ số kiến thiết, con số, hình thức đánh và số tiền cược cho người ghi đề trực tiếp hoặc qua tin nhắn, qua cuộc gọi điện thoại. Sau đó người ghi đề nhận tiền hoặc ghi nợ từ người chơi rồi ghi các thông tin trên vào một mảnh giấy rồi giao cho người chơi hoặc nhắn tin thể hiện đồng ý qua điện thoại. Người ghi đề sẽ tổng hợp các con số, hình thức đánh, số tiền … mà người chơi đã mua rồi gửi phơi đề qua tin nhắn điện thoại, mạng xã hội zalo cho chủ đề. Sau khi có kết quả xổ số thì các bên dựa trên kết quả xổ số của các đài đã lựa chọn biết tỷ lệ được thua, chủ đề thanh toán tiền trúng cho người ghi đề để người ghi đề thanh toán cho người mua đề nếu họ trúng thưởng.
Bị cáo T2 thỏa thuận tỷ lệ được thua với từng người ghi đề như sau:
* Theo kết quả xổ số kiến thiết đài miền Nam:
Đánh đầu đuôi tức là đánh con số của hàng đơn vị và hàng chục của giải tám và giải đặc biệt của 01 đài xổ số kiến thiết mở trong ngày, tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, dao động từ 1/73 đến 1/74 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 73.000 đồng đến 74.000 đồng).
Bao lô hai con số tức là đánh con số của hàng đơn vị và hàng chục của 18 lô số của 01 đài xổ số kiến thiết mở trong ngày, tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, dao động từ 1/73 đến 1/74.5 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 73.000 đồng đến 74.500 đồng).
Bao lô ba con số tức là đánh con số của hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm của 17 lô số của 01 đài xổ số kiến thiết mở trong ngày, tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, dao động từ 1/630 đến 1/645 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 630.000 đồng đến 645.000 đồng).
Xỉu chủ tức là đánh con số của hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm của giải bảy và giải đặc biệt của 01 đài xổ số kiến thiết mở trong ngày, tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, dao động từ 1/635 đến 1/645 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 635.000 đồng đến 645.000 đồng).
Đá chéo tức là đánh vào hai con số hàng đơn vị, hàng chục của 36 lô số của 02 đài xổ số kiến thiết mở trong ngày (người chơi tự chọn đài) tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, dao động từ 1/535 đến 01/545 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 535.000 đồng đến 545.000 đồng).
Đá vòng chéo tức là đánh vào ba con số hàng đơn vị, hàng chục của 36 lô số của 02 đài xổ số kiến thiết mở trong ngày (người chơi tự chọn đài), tỷ lệ thắng 01/545 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 545.000 đồng).
* Theo kết quả xổ số đài miền Bắc:
Đánh đầu đuôi tức là đánh con số của hàng đơn vị và hàng chục của giải bảy và giải đặc biệt của đài xổ số kiến thiết mở trong ngày, tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, dao động từ 1/93 đến 1/93.5 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 93.000 đồng đến 93.500 đồng).
Bao lô hai con số tức là đánh con số của hàng đơn vị và hàng chục của 23 lô số của đài xổ số kiến thiết mở trong ngày, tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, dao động từ 01/92 đến 1/93.5 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 92.000 đồng đến 93.500 đồng).
Bao lô ba con số tức là đánh con số của hàng đơn vị hàng chục và hàng trăm của 23 lô số của đài xổ số kiến thiết mở trong ngày, tỷ lệ thắng tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, dao động từ 01/920 đến 1/935 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 920.000 đồng đến 935.000 đồng).
Đánh xỉu chủ tức là đánh con số của hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm của giải sáu và giải đặc biệt của đài xổ số kiến thiết mở trong ngày, tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên, dao động từ 1/730 đến 1/735 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 730.000 đồng đến 735.000 đồng).
Đá tức là đánh hai con số hàng đơn vị, hàng chục của 27 lô số của đài xổ số mở trong ngày, tỷ lệ thắng tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên dao động từ 1/730 đến 1/735 (nghĩa là đánh 1.000 đồng nếu thắng thì được 730.000 đồng đến 735.000 đồng).
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử cấp sơ thẩm xác định hành vi của các bị cáo cụ thể như sau:
Bị cáo Nguyễn Thị Mộng T2 sử dụng điện thoại di động để gọi điện thoại, nhắn tin hoặc nhắn tin qua ứng dụng Zalo tên “T2 Thi” với T, T1, N và H để giao phơi đề cho T2, rồi T2 xác nhận lại bằng cách nhắn trả lời lại. T2 nhận phơi đề dựa theo kết quả xổ số kiến thiết đài miền Nam trong ngày tới trước 16 giờ và kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Bắc từ 16 giờ 30 đến trước 18 giờ, sau đó T2 sẽ tổng hợp phơi đề rồi giao lại cho chủ đề là Bảo N; trường hợp Bảo N không nhận phơi đề thì T2 giao lại cho người phụ nữ tên Cáp G và người phụ nữ tên Đ (đều không rõ nhân thân, lai lịch) để hưởng tiền hoa hồng. Sau khi có kết quả xổ số thì T2 đối chiếu số trúng xổ số của các đài đã lựa chọn với phơi đề mà Thư ký ghi đề gửi cho T2, nếu trúng thưởng thì T2 sẽ lấy tiền trúng trừ đi tiền phơi đề rồi giao dịch với Thư ký sau khi có kết quả xổ số miền Bắc hoặc là vào sáng ngày hôm sau, còn tiền chủ đề giao cho T2 thông qua một người làm nghề chạy xe ôm không rõ lai lịch vào sáng ngày hôm sau, Cáp G và Đ thì giao tiền tại nhà cho T2.
Từ ngày 16/11/2020 đến ngày 11/12/2020, T2 bán số đề cho T, T1 (bị cáo P mua số đề của bị cáo T1), N và H dựa trên kết quả xổ số kiến thiết miền Nam và miền Bắc, sau đó giao phơi đề cho chủ đề (Thầu đề) tên Bảo N, ngoài ra khi Bảo N không nhận phơi đề thì T2 giao phơi đề cho Cáp G và Đ để hưởng hoa hồng, cụ thể như sau:
- Ngày 16/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Nam, tổng số tiền theo phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 16.760.000 đồng; tổng số tiền thực tế T và T1 giao cho T2 là 12.706.300 đồng (T giao 10.011.300 đồng, T1 giao 2.695.000 đồng). Sau đó, T2 giao lại cho chủ đề số tiền thực tế là 12.570.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số, chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền là 13.000.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền trúng là 5.450.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền trúng là 7.300.000 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc đài miền Nam là 29.510.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 136.300 đồng, T2 được hưởng lợi từ việc trúng đề là 250.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 18.660.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 66.300 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.550.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 105.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 300.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Bắc, tổng số tiền theo phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 30.500.000 đồng; tổng số tiền thực tế T và T1 giao cho T2 là 29.330.000 đồng (T giao 26.880.000 đồng, T1 giao 2.450.000 đồng). Số tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 28.975.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc theo kết quả xổ số đài Miền Bắc là 30.500.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 355.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 355.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 28.000.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 140.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 140.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 2.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 50.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng.
- Ngày 17/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Nam, tổng số tiền theo phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 20.060.000 đồng; tiền thực tế T và T1 giao cho T2 là 15.250.300 đồng (T giao 9.860.300 đồng, T1 giao 5.390.000 đồng). Số tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 15.045.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 3.750.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền trúng 3.650.000 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 23.710.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 205.300 đồng, T2 được hưởng lợi từ việc trúng đề là 100.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 13.060.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 65.300 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 210.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Bắc, tổng tiền theo phơi đề T giao cho T2 là 30.120.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 28.915.200 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 28.614.000 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền là 30.120.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 301.200 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 30.120.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 150.600 đồng.
- Ngày 18/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Nam, tổng số tiền theo phơi đề mà T giao cho T2 là 12.140.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 9.165.700 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 9.105.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 60.700 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền là 12.140.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 60.700 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 12.140.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 60.700 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Bắc, tổng số tiền theo phơi đề mà T giao cho T2 là 30.080.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 31.756.800 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 31.426.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 330.800 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền là 30.080.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 330.800 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 33.080.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 165.400 đồng.
- Ngày 19/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Nam, tổng số tiền theo phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 13.940.000 đồng; tiền thực tế T và T1 giao cho T2 là 10.587.700 đồng (T giao 7.806.700 đồng, T1 giao 2.772.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 10.455.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 33.750.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền trúng là 26.075.000 đồng, giao cho T1 số tiền 7.300.000 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền là 47.315.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 132.700 đồng. T2 được hưởng lợi từ việc trúng đề là 375.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 36.240.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 51.700 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 175.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.600.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 28.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 300.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Bắc, tổng số tiền theo phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 35.540.000 đồng; tiền thực tế T và T1 giao cho T2 là 34.218.400 đồng (T giao 29.318.400 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 33.763.000 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền là 35.540.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 455.400 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 30.540.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 152.700 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.600.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng.
- Ngày 20/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T giao cho T2 là 15.210.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 11.483.550 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 11.407.500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 5.500.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 5.450.000 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền là 20.660.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 76.050 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 20.610.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 76.050 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T giao cho T2 24.890.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 23.894.400 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 23.645.500 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 248.900 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền là 24.890.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 248.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 24.890.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 124.450 đồng.
- Ngày 21/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 19.760.000 đồng; tiền thực tế T và T1 giao cho T2 15.026.800 (T giao 9.482.800 đồng, T1 giao 5.544.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 14.820.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 18.500.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền trúng 10.900.000 đồng, T2 giao cho T1 số tiền trúng 7.300.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng trúng là 300.000 đồng.
Như vậy, bị cáo T2 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền là 37.960.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 206.800 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 20.610.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 76.050 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 25.430.000 đồng; tiền thực tế T và T1 giao cho T2 là 24.512.800 đồng (T giao 19.612.800 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 24.158.500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 4.725.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 4.600.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 30.030.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 354.300 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 125.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 20.430.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 102.150 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 9.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 100.000 đồng.
- Ngày 22/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 17.130.000 đồng; tiền thực tế T và T1 giao cho T2 là 12.985.650 đồng (T giao 10.290.650 đồng, T1 giao 2.695.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 12.847.500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 5.625.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 3.725.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 1.825.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 22.680.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 138.150 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 75.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 17.330.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 68.150 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 25.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 5.250.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 105.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 75.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 27.500.000 đồng; tiền thực tế T và T1 giao cho T2 là 26.500.000 (T giao 21.600.000 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 26.125.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 4.725.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 4.600.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 32.100.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 375.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 125.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 22.500.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 68.150 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 112.500 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 9.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 100.000 đồng.
- Ngày 23/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T giao cho T2 là 7.140.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 5.390.700 đồng. Tiền thực tế bà T2 giao cho chủ đề là 5.355.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 37.500.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 37.250.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 44.390.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 35.700 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 250.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 44.140.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 35.700 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 250.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T giao cho T2 là 18.750.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 18.000.000 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 17.812.500 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 18.750.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 187.500 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 18.750.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 93.750 đồng.
- Ngày 24/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 14.700.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 11.203.500 đồng (T giao 5.813.500 đồng, T1 giao 5.390.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 11.025.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 3.750.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 3.725.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 18.425.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 178.500 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 25.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 11.400.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 38.500 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 25.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 210.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 23.810.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 22.957.600 đồng (T giao 18.057.600 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 22.619.500 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 23.810.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 338.100 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 18.810.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 94.050 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 5.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng.
- Ngày 25/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 14.860.000 đồng; tiền thực tế T và T1 giao cho T2 là 11.271.800 đồng (T giao 8.576.800 đồng, T1 giao 2.695.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 11.145.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 9.250.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 5.450.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 3.650.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 23.960.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 126.800 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 16.760.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 56.800 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 150.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 105.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T giao cho T2 là 19.330.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 18.556.800 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 18.363.500 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 19.330.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 193.300 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 19.330.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 96.650 đồng.
- Ngày 26/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T giao cho T2 là 10.790.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 8.146.450 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 8.092.500 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 10.790.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 53.950 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.790.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 53.950 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 13.000.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 12.530.000 đồng (T giao 10.080.000 đồng, T1 giao 2.450.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 12.350.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 4.725.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 4.675.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 17.675.000 đồng.
T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 180.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 15.150.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 52.500 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 25.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 2.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 50.000 đồng.
- Ngày 27/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 14.020.000 đ; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 10.690.100 đồng (T giao 5.300.100 đồng, T1 giao 5.390.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 10.515.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 9.250.000 đồng, T2 giao lại cho bà T số tiền 5.450.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 3.650.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 23.120.000 đồng.
T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 175.100 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 12.420.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 35.100 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 210.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 14.500.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 14.020.000 đồng (T giao 9.120.000 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 13.775.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 4.725.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 4.600.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 19.100.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 245.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 125.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 9.500.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 47.500 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 9.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 100.000 đồng.
- Ngày 28/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 15.690.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 11.950.950 đồng (T giao 6.560.950 đồng, T1 giao 5.390.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 11.767.500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 9.250.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 5.450.000 đồng, Thi giao lại cho T1 số tiền 3.650.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 24.790.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 183.450 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 14.090.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 43.450 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 50.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 210.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 19.000.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 18.340.000 đồng (T giao 13.440.000 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng), tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 18.050.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 4.725.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 4.600.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 23.600.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 290.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 125.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 14.000.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 70.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 9.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 100.000 đồng.
- Ngày 29/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 17.930.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 13.645.150 đồng (T giao 8.101.150 đồng, T1 giao 5.544.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 13.447.500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 13.000.000 đồng, T2 giao lại cho bà T số tiền 5.450.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 7.300.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 30.680.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 197.650 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 250.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 16.130.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 53.650 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 50.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 14.200.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 56.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 300.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 11.700.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là (T giao 6.432.000 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 11.115.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 217.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 6.615.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 1.870.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 4.600.000 đồng, T2 được hưởng tiền hoa hồng trúng là 145.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 18.170.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 197.650 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 250.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 8.560.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 33.500 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 10.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 9.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 100.000 đồng.
- Ngày 30/11/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 16.660.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 12.683.300 đồng (T giao 7.293.300 đồng, T1 giao 5.390.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 12.495.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 91.500.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 90.850.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 107.510.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 188.300 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 650.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 99.860.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 48.300 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 650.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng là 210.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 34.080.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 32.816.800 đồng (T giao 27.916.800 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 32.376.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 34.080.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 440.800 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 29.080.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng là 145.400 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 650.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 5.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng là 100.000 đồng.
- Ngày 01/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 11.910.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 9.044.550 đồng (T giao 6.349.550 đồng, T1 giao 2.695.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 8.932.500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 37.500.000 đồng, T2 giao lại cho bà T số tiền 29.800.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 7.300.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 49.010.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 112.050 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 400.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 38.010.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 42.050 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 200.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 105.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 300.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T giao cho T2 21.620.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 20.755.200 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 20.539.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 21.620.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 216.200 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 21.620.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 108.100 đồng.
- Ngày 02/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 17.460.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 13.287.300 đồng (T giao 7.897.300 đồng, T1 giao 5.390.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 13.095.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 17.460.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 192.300 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.460.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng là 52.300 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng là 210.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T giao cho T2 là 20.540.000 đồng; tiền thực tế T giao cho T2 là 19.718.400 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 19.513.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 26.250.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 26.050.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 46.590.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 205.400 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 420.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 46.440.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 42.050 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 102.700 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng.
- Ngày 03/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 18.440.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 14.027.200 đồng (T giao 8.637.200 đồng, T1 giao 5.390.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 13.830.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh 197.200 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 11.440.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 57.200 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 210.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 29.620.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 28.535.200 đồng (T giao 23.635.200 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 28.139.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 9.450.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 9.350.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 38.970.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 396.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 200.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 33.920.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 123.100 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 5.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng.
- Ngày 04/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 19.490.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 14.822.950 đồng (T giao 9.278.950 đồng, T1 giao 5.544.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 14.617.500 đồng.Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 22.500.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 22.350.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 41.840.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 205.450 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 34.490.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 61.450 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.200.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 56.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T giao cho T2 là 20.500.000 đồng; tiền thực tế mà T giao cho T2 là 19.680.000 đồng. Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 19.475.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 20.500.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 205.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 150.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 20.500.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 61.450 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 102.500 đồng.
- Ngày 05/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 21.500.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 16.340.500 đồng (T giao 10.796.500 đồng, T1 giao 5.544.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 16.125.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 13.000.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 5.450.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 7.300.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 34.250.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 215.500 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 250.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 19.700.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 71.500 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 14.200.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 56.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 300.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 25.900.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 24.972.000 đồng (T giao 19.680.000 đồng, T1 giao 5.292.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 24.605.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số, chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 9.450.000 đồng, T2 giao lại cho T số tiền 9.350.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 35.250.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 360.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 100.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 29.800.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 102.500 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 50.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 5.400.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 108.000 đồng.
- Ngày 06/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 21.800.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 16.567.000 đồng (T giao 11.023.000 đồng, T1 giao 5.544.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 16.350.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 7.500.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 7.300.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 29.100.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 217.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 200.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 14.600.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 73.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 14.200.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 56.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 300.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 25.020.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 24.127.200 đồng (T giao 18.835.200 đồng, T1 giao 5.292.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 23.769.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 9.450.000 đồng, T2 giao lại cho T1 số tiền 9.200.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 35.250.000 đồng.
T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 358.200 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 250.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 19.620.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 98.100 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 14.400.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 108.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 200.000 đồng.
- Ngày 07/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 16.440.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 12.517.200 đồng (T giao 7.127.200 đồng, T1 giao 5.390.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 12.330.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 16.440.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 187.200 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 9.440.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 47.200 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 210.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và T1 giao cho T2 là 15.040.000 đồng; tiền thực tế mà T và T1 giao cho T2 là 14.538.400 đồng (T giao 9.638.400 đồng, T1 giao cho T2 là 4.900.000 đồng).
Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 14.288.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 15.040.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 250.400 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 10.040.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 50.200 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 5.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng.
- Ngày 08/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T và N giao cho T2 là 7.702.000 đồng; tiền thực tế mà T và N giao cho T2 là 5.658.290 đồng (T giao 4.463.250 đồng, N giao 1.195.040 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 5.776.500 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 300.000 đồng, T2 giao lại cho N số tiền 294.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 7.996.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 617.900 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 6.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 6.150.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 30.750 đồng. Bị cáo N đánh bạc số tiền 1.846.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T và N giao cho T2 là 6.835.000 đồng; tiền thực tế mà T và N giao cho T2 là 10.333.950 đồng (T giao 3.840.000 đồng, N giao 2.749.950 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 6.493.250 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 475.000 đồng, T2 giao lại cho N số tiền 465.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 7.300.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 96.700 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 10.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 4.000.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 20.000 đồng. Bị cáo N đánh bạc số tiền 3.300.000 đồng.
- Ngày 09/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T, N và T1 giao cho T2 là 10.010.000 đồng; tiền thực tế mà T, N và T1 giao cho T2 là 7.682.950 đồng (T giao 1.245.750 đồng, T1 giao 5.390.000 đồng, N giao 1.047.200 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 7.507.500 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 10.010.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 175.450 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 1.650.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 8.250 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 210.000 đồng. Bị cáo N đánh bạc số tiền 1.360.000 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết đài Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T, N và T1 giao cho T2 là 6.397.000 đồng; tiền thực tế mà T, N và T1 giao cho T2 là 6.247.590 đồng (T giao 720.000 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng, N giao 627.590 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 6.077.150 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 4.725.000 đồng, T2 giao lại cho ông T1 số tiền 4.600.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 10.997.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 170.440 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 125.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 750.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 3.750 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 5.000.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng. Bị cáo N đánh bạc số tiền 647.000 đồng.
- Ngày 10/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T, N và H giao cho T2 là 9.931.000 đồng; tiền thực tế mà T, N, H giao cho bà T2 là 7.541.470 đồng (T giao 1.359.000 đồng, N giao 3.242.470 đồng, H giao 2.940.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 7.448.250 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 7.530.000 đồng, T2 giao lại cho N số tiền 4.577.500 đồng, T2 giao lại cho H số tiền 2.860.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 17.368.500 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 93.220 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 92.500 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 1.800.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 9.000 đồng. Bị cáo K (H) tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 6.780.000 đồng, K (H) được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 40.000 đồng. Bị cáo N đánh bạc số tiền 8.788.500 đồng.
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T, N, T1 và H giao cho T2 là 7.744.000 đồng; tiền thực tế mà T, N, T1 và H giao cho T2 là 7.550.780 đồng (T giao 768.000 đồng, T1 giao 4.900.000 đồng, N giao là 1.623.780 đồng, H giao 259.000 đồng). Tiền thực tế T2 giao cho chủ đề là 7.356.800 đồng. Sau khi có kết quả xổ số chủ đề giao tiền trúng cho T2 số tiền 5.386.50 đồng, T2 giao lại cho N số tiền 651.000 đồng, T2 giao lại cho T1 4.600.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 12.995.000 đồng. T2 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 193.980 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 135.500 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 800.000 đồng, T được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 4.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 9.500.000 đồng, T1 được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 100.000 đồng và được hưởng lợi từ việc trúng đề là 100.000 đồng. Bị cáo K (H) tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 270.000 đồng, K (H) được hưởng tiền hoa hồng giao phơi đề là 11.000 đồng. Bị cáo N đánh bạc số tiền 2.325.000 đồng.
- Ngày 11/12/2020:
+ Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Nam, tổng tiền phơi đề mà T, N và T1 giao cho T2 là 12.854.000 đồng; tiền thực tế mà T, N và T1 giao cho T2 là 9.859.180 đồng (T 1.932.800 đồng, T1 5.390.000 đồng, N 2.536.380 đồng) nhưng T, N và T1 chưa giao cho T2 nên T2 chưa giao cho chủ đề. Sau khi có kết quả xổ, N trúng được số tiền 545.000 đồng, số tiền này chủ đề chưa giao cho T2, T2 chưa giao cho N.
Tổng tiền phơi đề mà T ghi cho người mua đề là 2.560.000 đồng, tiền tiền thực tế người mua đề giao cho T là 1.945.600 đồng. Số tiền này người mua đề chưa giao cho T và T chưa giao cho T2.
Tổng tiền phơi đề mà T1 ghi số đề bán cho P là 7.000.000 đồng, tiền thực tế T1 lấy của P là 5.600.000 đồng. Tiền thực tế T1 giao cho T2 là 5.390.000 đồng nhưng P chưa giao cho T1 nên T1 chưa giao cho T2.
Tổng tiền phơi đề mà N ghi giao cho T2 là 3.294.000 đồng, tiền thực tế N giao cho T2 là 2.536.380 đồng nhưng số tiền này N chưa giao cho T2. Sau khi có kết quả xổ số, N trúng thưởng 535.000 đồng nhưng T2 chưa giao cho N.
Tổng tiền phơi đề mà H và K ghi bán cho ông H1, bà Ngạc Thị T, bà V và ông H2 là 7.856.000 đồng (tiền ghi số đề của ông H1 246.000 đồng, bà Ngạc Thị T 2.400.000 đồng, bà V 3.600.000 đồng, ông H2 1.610.000 đồng). Tiền thực tế H và K thu của người mua đề là 6.436.000 đồng (của ông H1 196.000 đồng; bà Ngạc Thị T 2.000.000 đồng; bà V 2.900.000 đồng; ông H2 1.340.000 đồng). Như vậy, số tiền ông H1 sử dụng đánh bạc với H và K là 246.000 đồng; số tiền bà Ngạc Thị T sử dụng đánh bạc với H và K là 2.400.000 đồng; số tiền bà V sử dụng đánh bạc với H và K là 3.600.000 đồng; số tiền ông H2 sử dụng đánh bạc với H và K là 1.610.000 đồng; số tiền H và K sử dụng để đánh bạc với ông H1, bà Ngạc Thị T, bà V và ông H2 7.856.000 đồng. Ngày 11/12/2020, H chưa giao phơi đề cho T2.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 13.399.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 2.560.000 đồng. Bị cáo T1 tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.000.000 đồng. Bị cáo N tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 3.829.000 đồng. Bị cáo K (H) tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 7.856.000 đồng.
Theo kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, tổng tiền phơi đề mà T, N giao cho T2 là 5.338.000 đồng; tiền thực tế mà T và N giao cho T2 là 5.161.680 đồng (T 1.536.000 đồng, N 3.625.860 đồng) nhưng T và N chưa giao cho T2, T2 chưa giao cho chủ đề. Sau khi có kết quả xổ số, N trúng được số tiền số tiền 2.325.000 đồng. Số tiền này chủ đề chưa giao cho T2, T2 chưa giao cho N.
Tổng tiền phơi đề mà N giao cho T2 là 3.738.000 đồng (N ghi số đề cho N số tiền 2.928.000 đồng; ghi số đề cho Nguyễn Thị Ngọc Y số tiền 540.000 đồng; ghi số đề cho Phan Đình Q số tiền 270.000 đồng, số tiền mà Y và Q mua số đề chưa giao cho N). Tiền thực tế N giao cho T2 là 3.625.860 đồng, nhưng số tiền này N chưa giao cho T2. Sau khi có kết quả xổ số, N trúng thưởng 2.465.000 đồng (trong đó Y trúng là 1.800.000 đồng, N trúng 665.000 đồng). N trừ số tiền mà Y mua đề, còn lại N tự bỏ tiền ra giao cho N số tiền trúng là 1.246.000 đồng. Như vậy, số tiền Y sử dụng đánh bạc với N là 2.340.000 đồng; số tiền Q sử dụng đánh bạc với N 270.000 đồng; số tiền N sử dụng đánh bạc với Y và Quân là 2.610.000 đồng; số tiền N sử dụng đánh bạc với T2 là 6.063.000 đồng.
Như vậy, số tiền T2 tổ chức cho người khác đánh bạc là 7.663.000 đồng. Bị cáo T tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 1.600.000 đồng. Bị cáo N tổ chức cho người khác đánh bạc số tiền 6.063.000 đồng.
Ngày 26/4/2021, Đoàn Quang H chết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện D điều tra bị can đối với Đoàn Quang H.
Đối với ông Nguyễn Ngọc H1, ông Lê Hoàng H2, bà Võ Phi V, bà Ngạc Thị T, bà Nguyễn Thị Ngọc Y và ông Phan Đình Q có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức mua lô số đề. Tuy nhiên, số tiền sử dụng để đánh bạc chưa đến mức 5.000.000 đồng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện D đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Đối với người chủ đề (thầu đề) tên Bảo N, Cáp G, Đ và người đàn ông chạy xe ôm, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện D tiếp tục điều tra xác minh và xử lý theo quy định.
Quá trình điều tra, các bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính và tiền dùng để đánh bạc: Bị cáo Nguyễn Thị Mộng T2 đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính 16.204.000 đồng; bị cáo Đặng Thị T đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính 5.725.000 đồng; bị cáo Hồ Hồng T1 đã nộp số tiền thu lợi bất chính 7.709.000 đồng; bị cáo Nguyễn Thị Kim N đã tự nguyện nộp lại số tiền sử dụng vào việc đánh bạc trái phép ngày 11/12/2020 là 5.464.000 đồng và số tiền thu lợi bất chính 5.987.000 đồng; bị cáo Nguyễn Văn P đã tự nguyện nộp số tiền sử dụng vào việc đánh bạc trái phép ngày 11/12/2020 5.600.000 đồng và số tiền thu lợi bất chính (trúng số đề) tổng số tiền 100.750.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2021/HS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1, khoản 4 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Mộng T2 và Đặng Thị T phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mộng T2 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị Mộng T2 số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Đặng Thị T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Đặng Thị T số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;
2. Tuyên bố các bị cáo Hồ Hồng T1, Nguyễn Văn P, Nguyễn Thị Kim N và Trương Thị K phạm tội “Đánh bạc”.
- Xử phạt bị cáo Hồ Hồng T1 08 (tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Hồ Hồng T1 số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 08 (tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn P số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim N 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị Kim N số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Trương Thị K 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Trương Thị K số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, làm ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn minh cộng đồng. Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, bị cáo T2 trực tiếp bán số đề cho đồng phạm T, T1, N, K (H) để giao lại cho người khác (không rõ nhân thân, lai lịch) để hưởng tiền chênh lệch; các bị cáo T, T1, N, K (H) bán số đề cho người chơi hoặc tự chơi giao lại cho bị cáo T2 để hưởng tiền chênh lệch hoặc tự cá cược thắng thua nên hành vi của các bị cáo T2, T, T1, N, K (H) là dấu hiệu của tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại Điều 322 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên:
Bị cáo T2, T có nhiều lần (T2 có 32 lần, T có 20 lần) với số tiền dùng để đánh bạc trên 20.000.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự;
Bị cáo T1, N, K (H) có nhiều lần với số tiền dùng để đánh bạc từ 5.000.000 đến dưới 20.000.000 đ (T1, P 34 lần, N 03 lần, K 02 lần) đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự;
Bị cáo P trực tiếp mua số đề của T1 để tự cá cược thắng thua bằng tiền có nhiều lần (34 lần) với số tiền dùng để đánh bạc từ 5.000.000 đến dưới 20.000.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Việc xác định số tiền dùng để đánh bạc là căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự (về tội danh “Tổ chức đánh bạc” hay “Đánh bạc”) và số lần phạm tội đánh bạc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (phạm tội nhiều lần hay không) là cơ sở xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.
Việc cấp sơ thẩm xác định số tiền dùng để đánh bạc để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo là tổng số tiền mà bị cáo đó mua bán, giao nhận số đề trong 01 ngày đối với các đài xổ số của tỉnh thuộc đài miền Nam xổ số trong ngày đó và tính 01 lần phạm tội trong 01 ngày là không đúng, dẫn đến việc xác định sai số tiền dùng để đánh bạc trong từng lần đánh bạc và số lần đánh bạc của từng bị cáo (số lần các bị cáo phạm tội nhiều hơn số lần cấp sơ thẩm xác định). Đây là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, nên cần phải hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại theo thủ tục chung. Do vụ án bị đề nghị hủy nên không xem xét kháng cáo của các bị cáo T2, T, T1, P, K và N.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Trong lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Nguyễn Thị Kim N mong Hội đồng xét xử xem xét cho yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo được thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, đã có căn cứ xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2020 đến ngày 11/12/2020, bị cáo Nguyễn Thị Mộng T2 thỏa thuận với các bị cáo T, T1 (T1 nhận ghi số đề cho bị cáo Nguyễn Văn P sau đó chuyển lại cho Nguyễn Thị Mộng T2 để hưởng tiền hoa hồng), N và K (H) về việc bán lô đề cho các con bạc và giao lại cho bị cáo T2 nhằm để hưởng hoa hồng từ việc giao phơi đề và hoa hồng từ việc giao tiền trúng đề cho các con bạc. Bị cáo T2 nhận phơi đề theo kết quả xổ số kiến thiết đài miền Nam trong ngày tới trước 16 giờ và kết quả xổ số kiến thiết đài miền Bắc từ 16 giờ 30 đến trước 18 giờ, sau đó T2 tổng hợp phơi đề rồi giao lại cho chủ đề là Bảo N; trường hợp Bảo N không nhận phơi đề thì T2 giao lại cho người phụ nữ tên Cáp G và người phụ nữ tên Đ (đều không rõ nhân thân, lai lịch) để hưởng tiền hoa hồng. Có rất nhiều ngày các bị cáo tham gia đánh bạc với số tiền đều trên 5.000.000 đồng, thậm chí trên 20.000.000 đồng/lần. Do vậy, hành vi của Nguyễn Thị Mộng T2 và Đặng Thị T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Thị Kim N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo với tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
Riêng bị cáo Hồ Hồng T1 và Trương Thị K có hành vi giúp sức cho bị cáo T2 tổ chức cho các bị cáo khác đánh bạc, cụ thể các bị cáo T1 và K nhận ghi số đề cho người khác sau đó chuyển lại cho bị cáo Nguyễn Thị Mộng T2 để hưởng tiền hoa hồng. Hành vi của các bị cáo T1 và K có dấu hiệu cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” quy định tại Điều 322 của Bộ luật Hình sự.
[3] Việc xác định số tiền dùng để đánh bạc là căn cứ xác định trách nhiệm hình sự về tội danh và số lần phạm tội đánh bạc, là cơ sở xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Các bị cáo thỏa thuận đánh bạc dưới hình thức ghi số đề dựa theo kết quả xổ số kiến thiết của đài miền Nam (đài xổ số của 02 đến 03 tỉnh/ngày) và đài miền Bắc. Tuy nhiên khi xác định số tiền dùng để đánh bạc và số lần đánh bạc, cấp sơ thẩm không xác định số tiền dùng để đánh bạc của từng đài xổ số các tỉnh miền Nam cùng 01 ngày mà tính tổng số tiền dùng để đánh bạc của 02 đến 03 tỉnh vào cùng 01 ngày (đài miền Nam) để xác định là 01 lần thực hiện hành vi phạm tội. Đây là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Mộng T2 thực hiện liên tục trong 26 ngày, tuy nhiên cấp sơ thẩm chưa làm rõ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không.
[5] Trong vụ án này các bị cáo có vai trò, tính chất mức độ khi thực hiện hành vi phạm tội khác nhau nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa phân hóa vai trò của các bị cáo khi quyết định hình phạt.
[6] Phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên các bị cáo không thi hành án đối với số tiền phạt bổ sung, thì hàng tháng các bị cáo nêu trên còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án là không đúng quy định của pháp luật.
[7] Do việc điều tra của cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không bổ sung được nên cần hủy án để điều tra lại theo quy định của pháp luật.
[8] Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Mộng T2 và bị cáo Trương Thị K đã rút toàn bộ nội dung đơn kháng cáo, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đặng Thị T và bị cáo Hồ Hồng T1 rút toàn bộ nội dung đơn kháng cáo nhưng do hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại nên Hội đồng xét xử không xét đến kháng cáo của các bị cáo.
[9] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị hủy bản án sơ thẩm là phù hợp.
[10] Án phí hình sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên các bị cáo không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355 và Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2021/HS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương để điều tra lại.
Chuyển hồ sơ vụ án đến Viện Kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương thụ lý, giải quyết lại vụ án theo quy định chung.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc số 147/2022/HS-PT
Số hiệu: | 147/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về