Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 59/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 59/2022/HS-PT NGÀY 23/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 40/2022/TLPT-HS ngày 07 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Lê Trùng D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2022/HS-ST ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong.

- Bị cáo có kháng cáo: Lê Trùng D (Tên gọi khác: Bé Ba), sinh ngày 10-12- 1998 tại tỉnh Bình Thuận.

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố S, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Đầu bếp; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tấn H, sinh năm 1970 (Đã chết) và bà Võ Thị Th, sinh năm 1975; vợ: Lê Thị Th Ng, sinh năm 1997 và 02 con sinh năm 2019, 2021.

Tiền án, tiền sự: Không.

Hoạt động nhân thân: Ngày 07-01-2021 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện T ban hành Quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 28-12-2020, Công an huyện Tuy Phong phối hợp với Công an thị trấn Phan Rí Cửa kiểm tra nhà ở của Lê Trùng D tại khu phố Song Th 1, thị trấn Phan Rí Cửa phát hiện tại chỗ ngồi của Lê Tr D và Hồ Văn Tr có một đĩa nhựa có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy (tinh thể màu trắng này được gói vào túi nylon có kích thước 05 x 07cm); 01 cái ví da màu đen bên trong có một chứng minh nhân dân và 01 thẻ ATM mang tên Lê Hồng P; 01 gói nylon kích thước (2,5 x 5)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 gói nylon không màu được hàn kín hai đầu có kích thước (2,5 x 2,5)cm bên trong có 02 viên nén màu xanh; 01 nỏ thủy tinh, 01 kéo kim loại dài 08cm; 01 cân tiểu ly màu đen;

02 gói nylon không màu đã cắt một đầu cùng kích thước (01 x 03)cm bên trong không có gì; 01 điện thoại di động hiệu Apple màu vàng; D giao nộp 01 khẩu súng ngắn màu nâu đen, số hiệu M1911A1 U.S.ARMY No871072 và 12 viên bi bằng kim loại màu trắng.

Chất tinh thể màu trắng được trong gói nylon kích thước (05 x 07) cm và chất tinh thể màu trắng trong gói nylon kích thước (2,5 x 05)cm được niêm phong, ký hiệu M1, 02 viên nén màu xanh trong gói nylon kích thước (2,5 x 2,5)cm được niêm phong, ký hiệu M2. Tại Kết luận giám định số 1454/KLGĐ-PC09 ngày 05/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận, kết luận: Mẫu M1 có khối lượng 1,1596 gam là Ketamine; Mẫu M2 có khối lượng 0,8156 gam là MDMA. Tại kết luận giám định số 305/C09B của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Khẩu súng ngắn gửi giám định là đồ chơi nguy hiểm, không phải là vũ khí quân dụng. Súng sử dụng bình khí nén lắp trong hộp tiếp đạn để bắn đạn hình cầu đường kính 06mm; 12 viên bi bằng kim loại màu trắng gửi giám định là đạn sử dụng để bắn được cho khẩu súng trên.

Lê Trùng D khai nhận: Tại nơi lực lượng chức năng phát hiện và thu giữ chất ma túy cùng với bộ dụng cụ sử dụng ma túy là nhà của Lê Trùng D đang ở và quản lý. Chất tinh thể màu trắng trong đĩa nhựa là ma túy đá của D bỏ ra để sử dụng nhưng chưa sử dụng hết, tinh thể màu trắng trong gói nylon kích thước (2,5 x 5)cm là ma túy đá D mua với số tiền 300.000 đồng và 02 viên nén màu xanh trong gói nylon kích thước (2,5 x 2,5)cm trong ví của Lê Hồng P không phải của D.

Hồ Văn Tr khai: Vào tối ngày 27-12-2020, Tr đến nhà D chơi và có đưa cho D số tiền 130.000 đồng để mua nước ngọt và thuốc lá. Sau khi vào trong nhà, Tr có nhìn thấy Lê Hồng P đã có mặt trong nhà D. Cả ba cùng chơi game khoảng 30 phút thì Lê Trùng D bỏ ra một bộ sử dụng ma túy, bên trong nỏ thủy tinh đã có sẵn ma túy. D là người sử dụng trước, lần lượt đến P và Tr. Sau đó Tr ngủ lại nhà D còn P về lúc nào thì Tr không biết. Số ma túy mà lực lượng chức năng thu giữ tại nhà D không phải của Tr, Tr không hùn tiền cùng D để mua ma túy và không để lại đồ vật gì tại nhà D.

Lê Hồng P khai: Vào tối ngày 27-12-2020, P có đến nhà D chơi và cùng sử dụng ma túy chung với D và Tr. Đến 22 giờ cùng ngày, D và Tr đi ngủ còn P ở lại chơi game đến gần sáng thì P về lại nhà ở khu phố Th Giang 1, thị trấn Phan Rí Cửa. Khi ra về P có để quên 01 giấy CMND và 01 thẻ ATM tại nhà D. P không thừa nhận gói ma túy đá, cái ví màu đen, bên trong ví có 01 gói nylon không màu chứa 02 viên nén màu xanh và 01 cân tiểu ly là của P để trong nhà D như D đã khai.

Về tang, vật chứng của vụ án: Thu giữ số ma túy trong đĩa nhựa, được gói vào túi nylon có kích thước 05 x 07cm; 01 gói nylon kích thước (2,5 x 5)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 cái ví da màu đen bên trong có một chứng minh nhân dân và 01 thẻ ATM mang tên Lê Hồng P và 01 gói nylon không màu được hàn kín hai đầu có kích thước (2,5 x 2,5)cm bên trong có 02 viên nén màu xanh; 01 nỏ thủy tinh, 01 kéo kim loại dài 08cm; 01 cân tiểu ly màu đen; 02 gói nylon không màu đã cắt một đầu cùng kích thước (01 x 03)cm bên trong không có gì; 01 điện thoại di động hiệu Apple màu vàng; 01 khẩu súng ngắn màu nâu đen, số hiệu M1911A1 U.S.ARMY No871072 và 12 viên bi bằng kim loại màu trắng.

Đã chuyển vào kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuy Phong 01 gói nylon kích thước (2,5 x 5)cm và 1,0532 gam mẫu M1 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1445/1; 01 cái ví da màu đen; 01 nỏ thủy tinh, 01 kéo kim loại dài 08cm; 01 cân tiểu ly màu đen; 02 gói nylon không màu đã cắt một đầu cùng kích thước (01 x 03)cm bên trong không có gì và 01 đĩa nhựa. Chuyển 01 (Một) khẩu súng ngắn màu nâu đen, số hiệu M1911A1 U.S.ARMY No871072 và 12 viên bi bằng kim loại màu trắng cho Đội cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Công an huyện Tuy Phong để tiêu hủy theo quy định. Đã trả lại cho Lê Trùng D 01 điện thoại hiệu Apple màu vàng, trả lại cho Lê Hồng P 01 (Một) giấy chứng minh thư nhân dân và 01 (một) thẻ ATM mang tên Lê Hồng P.

Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tuy Phong có Quyết định tách vụ án nên tiếp tục tạm giữ 02 viên nén màu xanh trong gói ny lon kích thước (2,5 x 2,5)cm, đã được giám định là MDMA có trọng lượng 0,8156 gam để tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2022/HS-ST ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong đã quyết định:

Căn cứ vào: Điều 268, Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Trùng D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 55 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Trùng D 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc chấp hành chung 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí, quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Ngày 21/02/2022, bị cáo Lê Trùng D có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên đơn kháng cáo, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về vệc giải quyết vụ án:

Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Trùng D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và xử phạt mức án 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là phù hợp. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 21/2022/HS-ST ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định, được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giải quyết theo thủ tục xét xử phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định:

Vào lúc 10 giờ 30 phút, ngày 28-12-2021 lực lượng chức năng tiến hành kiểm tra nhà ở của bị cáo tại khu phố Song Th 1, thị trấn Phan Rí Cửa, phát hiện bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng. Thu giữ tại chỗ ngồi của bị cáo có một lượng chất rắn, nghi là ma túy. Tiến hành niêm phong gửi giám định đã xác định chất rắn mà bị cáo đã sử dụng còn lại trên đĩa nhựa và chất rắn trong gói nylon có kích thước (2,5 x 5)cm là Ketamine khối lượng 1,1596 gam (Tại Bản kết luận giám định về ma túy số 1454/KLGĐ-PC09 ngày 05/01/2021). Quá trình điều tra, bị cáo còn khai nhận vào tối ngày 27-12-2020, Lê Hồng P và Hồ Văn Tr đến tại nhà ở của bị cáo chơi, sau khi chơi game được khoảng 30 phút thì bị cáo đã lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy, bên trong nỏ thủy tinh đã có sẵn ma túy, đem đến chỗ ngồi chơi game và cả ba người cùng sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo là người sử dụng ma túy trước, lần lượt đến Lê Hồng P và Hồ Văn Tr. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 và điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo Lê Trùng D là công dân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết hành vi của bị cáo là xâm phạm đến nguyên tắc quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Ketamine là một chất ma túy, gây ảo giác và mất nhận thức ở con người, vì thế nó tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất, tinh thần của người sử dụng nhưng để thỏa mãn cho nhu cầu của mình mà bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm, làm góp phần gia tăng tệ nạn ma túy, băng hoại đạo đức lối sống, làm phát sinh các loại tội phạm khác nhưng do bị nghiện nên bị cáo đã bất chấp mà thực hiện hành vi phạm tội.

Hành vi của bị cáo làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho gia đình và cộng đồng dân cư. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để giáo dục và cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo:

Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và xử phạt bị cáo mức án 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là đúng người , đúng tội không oan.

Bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra tài liệu, chứng cứ nào mới phù hợp với quy định của pháp luật, vì vậy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, bị cáo phải chịu án phí p thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Trùng D, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2022/HS-ST ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong.

Căn cứ vào: Điều 268, Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Trùng D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 55 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Trùng D 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc chấp hành chung 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 2 Điều 23, của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Trùng D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (Ngày 23/5/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 59/2022/HS-PT

Số hiệu:59/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;