Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Đặng Việt H; sinh năm 2000, tại Thành phố H; nơi cư trú: Tổ dân phố ĐN, phường ĐN, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Trần H1 và bà Nguyễn Thị Thanh T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2020 đến nay. (có mặt)

2. Dương Xuân B; sinh năm 1987, tại Thành phố H; nơi cư trú (nơi đăng ký thường trú: 11 Tổ X (số mới: 29 Ngõ NH), phường NH, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội; chỗ ở: 269 TNH, phường PT, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh); nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Đình T1 và bà Đặng Thị Mai H3; có vợ (đã ly hôn), chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2020, đến ngày 04/02/2021 thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo lĩnh; bị cáo tại ngoại, (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Lê Hữu G, sinh năm 1971; nơi cư trú (hộ khẩu thường trú: 55 CL, phường TB, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội; chỗ ở: Căn hộ 1307 Lô Y, Chung cư TTT, Phường M, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh), (có mặt)

2. Anh Nguyễn Kim H3, sinh năm: 1986; nơi cư trú: 213 Ngõ Z, phường NH, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội. (có mặt)

3. Anh Đặng Hoàng T2, sinh năm: 1988; nơi cư trú: 213 ngõ CKT, phường TP, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. (có mặt)

4. Anh Lai Đức M, sinh năm: 2000; nơi cư trú: 25 Ngõ J, phố KT, phường KT, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt)

5. Anh Trịnh Tiến A, sinh năm: 1998; nơi cư trú: 217 Tổ L, phường PL, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt)

6. Anh Lê Văn D, sinh năm: 1992; nơi cư trú: 31 Ngõ V, phường TP, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. (có mặt)

7. Anh Phạm Trung K, sinh năm: 1996; nơi cư trú: 137 TT, phường BĐ, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt)

8. Anh Nguyễn Đức C, sinh năm: 2000; nơi cư trú: 46D ngõ QT, phường TQ, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt)

9. Anh Nguyễn Minh H4, sinh năm: 1999; nơi cư trú: 217 Tổ M, phường PL, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 09 giờ ngày 11/11/2020, Công an Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra hành chính căn hộ P1A - 27.03 Chung cư E (địa chỉ: 130 CL, Phường B, Quận 8). Tại thời điểm kiểm tra, trong căn hộ có 12 người gồm: Dương Xuân B, Đặng Việt H, Lê Hữu G, Nguyễn Kim H3, Đặng Hoàng T2, Lai Đức M, Trịnh Tiến A, Lê Văn D, Phạm Trung K, Nguyễn Đức C, Nguyễn Minh H4 và Lâm Thị Tố U.

Qua kiểm tra, Công an phát hiện thu giữ trên bàn tại phòng khách 01 túi da màu nâu bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng và 01 gói nylon chứa 07 viên nén màu xanh (Đặng Việt H khai nhận là ma túy tổng hợp của H dùng để sử dụng). Ngoài ra, Công an còn thu giữ 01 đĩa thủy tinh, 01 ống nhựa tròn màu đen (Dương Xuân B và Đặng Việt H cùng khai nhận là công cụ sử dụng ma túy tổng hợp). Công an tiến hành dẫn giải Đặng Việt H và mời tất cả những người có mặt trong căn hộ về trụ sở Công an Phường 4, Quận 8 lập biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang đối với H. Ngoài ra, Công an còn tạm giữ của H 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim liên lạc 036.7966636 (đã bị hư hỏng), 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng cuộn tròn, 01 xe gắn máy biển số 29D1- 675.80; tạm giữ của G 01 dàn máy chỉnh băng đĩa nhạc và loa nghe nhạc.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy có trong nước tiểu các đối tượng có kết quả: Dương Xuân B, Đặng Việt H, Lê Hữu G, Nguyễn Kim H3, Đặng Hoàng T2, Lai Đức M, Trịnh Tiến A, Lê Văn D, Phạm Trung K, Nguyễn Đức C, Nguyễn Minh H4 đều dương tính với chất ma túy tổng hợp; riêng Lâm Thị Tú U âm tính với các chất ma túy.

Tại Kết luận giám định số 1940/KLGĐ-H ngày 17/11/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đặng Việt H và hình dấu Công an Phường 4, Quận 8, bên trong có:

+ Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6379 gam, loại Ketamine.

+ 07 viên nén màu xanh là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,6079 gam, loại MDMA.

Quá trình điều tra xác định, Dương Xuân B và Lâm Thị Tú U thuê căn hộ P1A- 27.03 Chung cư E, Phường B, Quận 8 để chung sống như vợ chồng từ tháng 4/2020. Bách là bạn đồng hương với Đặng Việt H, Đặng Hoàng T2, Nguyễn Kim H3, Lê Hữu G. Khoảng 20 giờ ngày 10/11/2020, có nhóm bạn đồng hương của T2 gồm: Lai Đức M, Trịnh Tiến A, Lê Văn D, Phạm Trung K, Nguyễn Đức C, Nguyễn Minh H4 từ Thành phố Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh du lịch. T2 rủ B và sau đó B rủ H đi ăn tối trên đường HG, Quận 6. Đến 22 giờ ngày 10/11/2020, cả nhóm rủ nhau đến quán Bar “PC” trên đường Cống Quỳnh, Quận 1 để nghe nhạc, uống bia. Sau khi uống bia được một lúc, H được một người thanh niên (không rõ lai lịch) là nhân viên phục vụ trong quán rủ mua ma túy tổng hợp (thường gọi là “thuốc lắc”) với giá 200.000 đồng/viên để cho cả nhóm sử dụng. Ngoại trừ M không sử dụng, 08 người còn lại gồm: Trịnh Tiến A, Lê Văn D, Phạm Trung K, Nguyễn Đức C, Nguyễn Minh H4, Dương Xuân B, Đặng Việt H, Đặng Hoàng T2 đều sử dụng ma túy. Lâm Thị Tú U và Nguyễn Kim H3 đến chơi sau và không sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng hết 08 viên ma túy tổng hợp, Hùng gặp người nam nhân viên phục vụ trước đó mua thêm 07 viên ma túy loại MDMA và 800.000 đồng ma túy tổng hợp (thường gọi là “hàng khay”) để dành sử dụng sau. Người phục vụ nhận của H số tiền 3.800.000 đồng và đưa cho H một gói giấy bên trong có chứa 07 viên ma túy tổng hợp và một gói ma túy “hàng khay”.

Đến khoảng 02 giờ ngày 11/11/2020, B rủ cả nhóm bạn 09 người đến căn hộ P1A -27.03 Chung cư E do B và U đang thuê để nghỉ ngơi và ở lại qua đêm. Khi về đến căn hộ, U vào phòng bên trái và khép cửa ngủ, Minh H4 và Trung K vào phòng bên phải và khép cửa ngủ; Kim H4 ngủ trên ghế sofa phòng khách. H ra ngoài phòng khách ngồi một mình; còn B, T2, M, A, Đức c và D đi vệ sinh, xuống gian phòng bếp nấu mì gói ăn. Khi B quay lại phòng khách thì gặp H và H hỏi mượn của B 01 đĩa thủy tinh và 01 ống nhựa tròn màu đen để làm công cụ sử dụng ma túy riêng cho bản thân. Sau khi đổ ma túy “hàng khay” ra đĩa thì H mời B sử dụng. Do đã uống nhiều rượu bia và sử dụng thuốc lắc trong quán Bar nên B nhận ma túy từ H và hít một hơi, sau đó đi vào phòng ngủ cùng Tú u. Một lúc sau, T2, M, A, Đức c và D đi ra phòng khách thì gặp H và được H mời sử dụng ma túy thì những người này đồng ý. Riêng D tự lấy tờ tiền loại 20.000 đồng cuộn tròn làm dụng cụ sử dụng ma túy cho bản thân. Sau khi sử dụng ma túy thì H, T2, M, A, Đức C và D vào phòng bên phải căn hộ ngủ cùng Minh H4 và Trung K.

Khoảng 06 giờ ngày 11/11/2020, B tỉnh dậy và gọi điện cho bạn là Lê Hữu G mang máy chỉnh nhạc đến chơi nhạc cho cả nhóm cùng thưởng thức. Khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, G đến chơi và mang theo dàn máy chỉnh nhạc và loa nghe nhạc nhưng thấy nhiều người còn ngủ nên chưa đánh nhạc. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, Công an Phường 4, Quận 8 tiến hành kiểm tra hành chính bắt quả tang như trên.

Quá trình điều tra, Đặng Việt H khai nhận toàn bộ số ma túy Công an thu giữ là do H bỏ tiền ra mua, không có ai yêu cầu hay hùn tiền cùng H. Khi H mượn B đồ sử dụng ma túy thì H chỉ nói để cho riêng H sử dụng và rủ B sử dụng chung. Sau khi B sử dụng ma túy do H mời và đi ngủ thì H tiếp tục gặp và rủ những người còn lại sử dụng ma túy, vì vậy B không biết.

Lê Văn D khai nhận, tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng là của D dùng để sử dụng ma túy cho riêng bản thân D và không có cho ai khác sử dụng chung tờ tiền này.

Lâm Thị Tố U khai không sử dụng ma túy và không biết việc nhóm bạn của B sử dụng ma túy tại căn hộ P1A - 27.03 Chung cư E.

Qua điều tra, Cơ quan điều tra đã khởi tố bị can và bắt tạm giam để điều tra Dương Xuân B về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Lê Hữu G, Nguyễn Kim H3, Đặng Hoàng T2, Lai Đức M, Trịnh Tiến A, Lê Văn D, Phạm Trung K, Nguyễn Đức c và Nguyễn Minh H4 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra bàn giao cho Công an Phường 4, Quận 8 xử lý vi phạm hành chính.

Căn hộ P1A - 27.03 Chung cư E do bà Nguyễn Thị H đứng tên chủ sở hữu. Bà H không biết B thuê phòng để tổ chức sử dụng ma túy tại đây nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý.

Việc tạm giữ và xử lý vật chứng trong vụ án:

- 01 gói được niêm phong bên ngoài có ghi ký hiệu 1940/2020 (Q8), bên ngoài có chữ ký ghi tên Đặng Việt H và hình dấu Công an Phường 4, Quận 8, chữ ký ghi tên giám định viên Phan Hoàng Q;

- 01 đĩa thủy tinh, 01 ống hút bằng nhựa màu đen do Dương Xuân B đưa cho Đặng Việt H dùng làm công cụ sử dụng ma túy;

- 01 túi da màu nâu đựng ma túy của Đặng Việt H;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số 036.7966636 của Đặng Việt H, không liên quan đến việc mua ma túy;

- 01 dàn máy chỉnh băng đĩa nhạc hiệu Pioneer DJ và loa nghe nhạc tạm giữ của Lê Hữu G, không liên quan đến việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Anh G yêu cầu được xem xét nhận lại các tài sản này.

- 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng của Lê Văn D dùng làm công cụ sử dụng ma túy;

- Xe gắn máy biển số 29D1-675.80 do anh Phạm Trung K đứng tên đăng ký và không sử dụng vào việc giúp H mua ma túy. Ngày 02/02/2021, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại xe cho anh K.

Tại bản Cáo trạng số 74/CT-VKS ngày 16/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo như sau:

- Truy tố bị cáo Đặng Việt H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, theo điểm i khoản 1 Điều 249 và các điểm a, b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Truy tố bị cáo Dương Xuân B về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, theo khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đặng Việt H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”; truy tố bị cáo Duong Xuân B về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, theo khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị như sau:

- Đối với bị cáo Đặng Việt H: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 và các điểm a, b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và 07 năm đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”; Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội từ 08 năm đến 09 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Đối với bị cáo Dương Xuân B: Áp dụng khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 08 tháng đến 10 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy, 01 túi da và các công cụ dùng vào việc tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Riêng tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Trả lại bị cáo H01 điện thoại di động hiệu Iphone; trả lại anh Lê Hữu G 01 dàn máy chỉnh nhạc và loa nghe nhạc.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận; các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Đặng Việt H và Dương Xuân B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo về cơ bản phù hợp với nội dung cáo hạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8 và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, xác định: Vào ngày 11/11/2020, tại Căn hộ P1A - 27.03 Chung cư E (số 130 CL, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh), bị cáo Đặng Việt H bị bắt quả tang có hành vi cất giữ trái phép 0,6379 gam ma túy loại Ketamine và 2,6079 gam ma túy loại MDMA, mục đích sử dụng. Ngoài ra, bị cáo H còn là người cung cấp ma túy và công cụ sử dụng ma túy cho các đối tượng khác sử dụng trái phép ma túy tại địa chỉ trên. Cụ thể, bị cáo H đã cung cấp ma túy cho bị cáo Dương Xuân B sử dụng một lần; sau đó, bị cáo lại tiếp tục cung cấp ma túy cho 05 người khác sử dụng. Mặt khác, qua lời khai nhận của các bị cáo và những người sử dụng chung ma túy, thì trước đó vào khoảng 22 giờ ngày 10/11/2020, tại quán Bar “PC” trên đường CQ, Quận 1, bị cáo H cũng đã cung cấp ma túy cho 08 người sử dụng gồm: Trịnh Tiến A, Lê Văn D, Phạm Trung K, Nguyễn Đức C, Nguyễn Minh H4, Dương Xuân B, Đặng Việt H, Đặng Hoàng T2.

Bị cáo Dương Xuân B có hành vi cung cấp 01 cái đĩa thủy tinh và 01 ống hút bằng nhựa màu đen cho bị cáo Đặng Việt H dùng làm công cụ sử dụng trái phép chất ma túy, đồng thời cùng sử dụng chung ma túy với bị cáo H. Tuy nhiên, bị cáo B không biết việc bị cáo H tiếp tục cho các đối tượng khác sử dụng ma túy bằng các công cụ mượn từ bị cáo B.

[3] Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như sau:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” như sau:

1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Đối với 02 người trở lên;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... ” [4] Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy và an toàn xã hội. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định:

Hành vi của bị cáo Đặng Việt H đã đủ yếu tố cấu thành các tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 và các điểm a, b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Hành vi của bị cáo Dương Xuân B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà các bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[6] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng người, đúng tội, mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với các bị cáo. Bị cáo Bách có cha là ông Dương Đình T2 có thành tích xuất sắc trong công tác, được tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba vào năm 2012 và Huân chương lao động hạng Nhì vào năm 2018. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Bách.

[7] Xét thấy, bị cáo B đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 của Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo đã phạm.

[8] Bị cáo Đặng Việt H phạm tội thuộc trường hợp phạm nhiều tội nên Hội đồng xét xử tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[9] Xét thấy, hành vi của các bị cáo không nhằm mục đích thu lợi bất chính, đồng thời theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng tạm giữ trong vụ án, quá trình điều tra thu giữ số ma túy trong gói niêm phong số 1940/2020 (Q8); 01 đĩa thủy tinh; 01 ống hút nhựa và 01 túi da màu nâu. Xét là vật cấm tàng trữ, lưu hành và công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

[11] 01 điện thoại di động hiệu Iphone tạm giữ của bị cáo Hùng, xét là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo.

[12] 01 dàn máy chỉnh băng đĩa nhạc hiệu Pioneer DJ và loa nghe nhạc tạm giữ của anh Lê Hữu G, xét là tài sản của anh G, không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho anh G.

[13] Tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng tạm giữ của anh Lê Văn D, có dùng để làm công cụ sử dụng trái phép chất ma túy nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[14] Đối với người thanh niên bán ma tuý cho Hùng do không xác định được lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý, do đó Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[15] Đối với Lê Hữu G, Nguyễn Kim H3, Đặng Hoàng T2, Lai Đức M, Trịnh Tiến A, Lê Văn D, Phạm Trung K, Nguyễn Đức C và Nguyễn Minh H4, qua điều tra xác định không phải đồng phạm với các bị cáo nhưng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra đã bàn giao cho Công an Phường 4, Quận 8 xử lý hành chính là phù hợp quy định pháp luật.

[16] Anh Lê Văn D có hành vi dùng tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng làm công cụ sử dụng ma túy nhưng chỉ sử dụng cho riêng bản thân anh D và không cho ai khác sử dụng chung tờ tiền này. Do đó, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là phù hợp quy định pháp luật.

[17] Đối với Lâm Thị Tố U, qua điều tra xác định không tham gia sử dụng ma túy và không biết các bị cáo H, B tổ chức sử dụng ma túy tại nơi ở của u nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

[18] Đối với bà Nguyễn Thị H là chủ sở hữu Căn hộ P1A - 27.03 Chung cư E, do bà H không biết các đối tượng thuê phòng và dùng phòng thuê để tổ chức sử dụng ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

[19] Về án phí hình sự: Căn cứ quy định tại Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Việt H phạm các tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”; bị cáo Dương Xuân B phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.

- Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249 và các điểm a, b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đặng Việt H01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/11/2020.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Dương Xuân B 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Bị cáo được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2020 đến ngày 04/02/2021.

- Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các điểm a, b khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 gói được niêm phong bên ngoài có ghi ký hiệu 1940/2020 (Q8), chữ ký ghi tên Đặng Việt H, hình dấu Công an Phường 4, Quận 8 và chữ ký giám định viên Phan Hoàng Q.

+ 01 túi da màu nâu, 01 đĩa thủy tinh và 01 ống hút bằng nhựa màu đen.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng.

Trả lại bị cáo Đặng Việt H: 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim số 036.7966636, số Imei: Không có.

Trả lại anh Lê Hữu G: 01 dàn máy chỉnh băng đĩa nhạc hiệu Pioneer DJ và loa nghe nhạc.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/3/2021).

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc mỗi bị cáo Đặng Việt H và Dương Xuân B nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;