Bản án về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy số 20/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 20/2022/HSST NGÀY 26/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/5/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2022/HSST ngày 05/5/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HS ngày 12/5/2022 đối với các bị cáo:

1/ Phạm Văn N - Sinh năm 1994; tại: xã Nga Thủy, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Hưng Đạo, xã Nga Thủy, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn B (đã chết) và bà Phạm Thị H, sinh năm 1971; chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nga Sơn từ ngày 25/01/2022 đến nay; Có mặt.

2/ Phan Văn T - Sinh năm 1993; tại: xã Nga Thủy, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Lê Lợi, xã Nga Thủy, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Văn H, sinh năm 1969; con bà: Đào Thị H, sinh năm 1971; có vợ: Mai Thị Nga, sinh năm 1994; có 02 con: con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án: không;

Tiền sự: Năm 2019, bị Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng tại Quyết định số 14/2019/QĐ-TA, ngày 08/10/2019; chấp hành xong ngày 14/01/2022.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nga Sơn từ ngày 26/01/2022 đến nay; Có mặt.

* Người làm chứng: Anh Trần Thế H - Sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn Hưng Đạo, xã Nga Thủy, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

* Người chứng kiến: Bà Nguyễn Ngọc D - Sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn Hưng Đạo, xã Nga Thủy, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 15 phút, ngày 25/01/2022, tại khu cồn cát phía sau Trường tiểu học xã Nga Thủy, tổ công tác của Công an xã Nga Thủy cùng các trinh sát phòng chống tội phạm về ma túy trong khi đang làm nhiệm vụ phát hiện một nam thanh niên ngồi bên đường, bên cạnh là một xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM, màu nâu, không gắn biển kiểm soát, có biểu hiện không bình thường nên đã tiến hành kiểm tra và phát hiện trong túi quần bên trái của người thanh niên đó có 01 túi nilon trong suốt, kích thước (5 x3)cm, bên trong chứa chất màu trắng, dạng cục vụn và 01 xilanh, dung tích 3ml/cc, đã qua sử dụng. Theo trình bày về thông tin cá nhân với Công an, người thanh niên đó tên là Phạm Văn N. Túi nilon bên trong chứa chất màu trắng dạng cục vụn là heroine, N mới mua của Phan Văn T, giá 200.000đ để sử dụng cho bản thân, còn xilanh là dụng cụ của N vừa sử dụng ma tuý xong. Công an đã đưa N cùng tang vật thu được về UBND xã Nga Thủy để lập biên bản phạm tội quả tang và lập biên bản để bảo quản các tang vật để xử lý theo quy định.

Cơ quan điều tra Công an huyện Nga Sơn đã triệu tập Phan Văn T đến làm việc. Đến 10 giờ 10 phút, ngày 26/01/2022, Phan Văn T đã đầu thú và khai nhận toàn bộ nội dung sự việc. Do là người nghiện ma túy nên T thường lên thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung tìm mua ma túy. Đầu tháng 01/2020, T đã lên thị trấn Hà Trung mua 01 gói ma túy, giá 400.000đ, mua được ma túy T mang về nhà cất vào phòng ngủ và sử dụng dần cho bản thân. Ngày 14/01/2020, T bị Công an huyện Nga Sơn áp giải để đi cai nghiện bắt buộc theo quyết định số 14/2019/QĐ-TA, ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn với thời hạn 24 tháng. Ngày 14/01/2022, sau khi chấp hành xong quyết định cai nghiện bắt buộc và trở về địa phương nhưng T bị áp dụng biện pháp cách ly để phòng chống Covid-19 theo quy định, nên đến ngày 21/01/2022, T trở về nhà. T nhớ còn một phần ma túy cất giấu chưa sử dụng, nhưng doTú đã cai nghiện và không có nhu cầu sử dụng nên tối ngày 25/01/2022, T nhắn tin cho Phạm Văn N qua ứng dụng Messenger là “Phu Quy” để chào bán cho N gói ma túy với giá 200.000đ, N đồng ý và T hẹn N địa điểm mua bán ma túy là khu vực cồn cát thuộc thôn Lê Lợi, xã Nga Thủy.

Đến 21 giờ, ngày 25/01/2022 tại điểm hẹn, T gặp đưa cho N 01 túi nilon bên trong chứa heroine, N đưa T 200.000đ. Sau đó, N điều khiển xe đi mua xilanh và Novocain ở hiệu thuốc gần đó rồi đi ra khu vực nghĩa trang thuộc thôn Hưng Đạo, xã Nga Thủy, N lấy một phần ma túy ra để sử dụng. Do N đã sử dụng rượu trước đó nên khi sử dụng xong ma túy, N ngồi bất động bên cạnh xe mô tô dựng ven đường cho đến khi bị lực lượng chức năng kiểm tra, phát hiện, thu giữ trong túi quần bên trái của N phần gói ma túy ma túy còn lại.

Số tiền 200.000đ, T mang về để lên bàn trong phòng ngủ của gia đình, sáng hôm sau T không thấy số tiền đó.

Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số 16/QĐ-CSĐT, ngày 26/01/2022 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định: Chất màu trắng, dạng cục vụn bên trong túi nilon trong suốt, kích thước 5 x3cm gửi giám định có phải là ma túy không? Nếu là ma túy là loại gì? Có khối lượng bao nhiêu? Tại kết luận giám định số 664/KL-PC09-MT, ngày 28/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

- Chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,308g (không phẩy ba không tám gam) loại heroine.

Hành vi của N mua ma túy của T, khối lượng là 0,308g, loại heroine tàng trữ để sử dụng trái phép nên Phạm Văn N phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS; Phan Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho T, Cơ quan điều tra Công an huyện Nga Sơn đã truy tìm nhưng không xác định được để xử lý theo quy định.

Đối với xe mô tô, nhãn hiệu Hon da Dream, màu trắng, nâu đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của anh Lê Văn D mua của ông Mai Văn T. Khi N mượn xe, anh D không biết mục đích N mượn xe để mua ma túy trái phép. Anh D đã nhận lại xe, xe không hư hỏng nên anh D không có yêu cầu gì với bị cáo.

Vật chứng còn lại đang được bảo quản chờ xử lý, gồm: 01 xilanh dung tích 3ml/cc, đã qua sử dụng; toàn bộ bao gói mở niêm phong và 0,279g chất màu trắng dạng cục vụn, loại heroine là mẫu vật còn lại sau giám định.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Nga Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng số 22/CT-VKSNS-MT, ngày 04/5/2022 đối với bị cáo Phạm Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS; đối với Phan Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS và đề nghị HĐXX áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, xử phạt: bị cáo Phạm Văn N từ 18 đến 24 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (25/01/2022); áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51(đối với T) của Bộ luật hình sự; xử phạt:

bị cáo Phan Văn T từ 30 đến 36 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (26/01/2022); Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo N theo khoản 5 Điều 249; bị cáo T theo khoản 5 Điều 251 của BLHS vì các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định.

* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 xilanh dung tích 3ml/cc, đã qua sử dụng; 01 Phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên: Lê Minh Tn, Nguyễn Trần Đ, Nguyễn Văn M và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa bên trong có chứa toàn bộ bao gói mở niêm phong của phong bì gửi giám định và 0,279g chất màu trắng, dạng cục vụn là mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Truy thu số tiền 200.000đ bị cáo T đã bán ma túy cho N do phạm tội mà có, nộp ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo Phạm Văn N và Phan Văn T không có ý kiến tranh luận với VKS; các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo N, T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình Phan Văn T là người nghiện ma túy, năm 2020, bị cáo lên mua ma túy tại thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung của người nam giới không rõ tên, tuổi, địa chỉ với giá 400.000đ mang về nhà cất trong phòng ngủ để sử dụng dần. Sau đó, bị cáo bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng. Khi chấp hành xong trở về địa phương, T không có nhu cầu sử dụng ma túy nên nhớ đến gói ma túy cất thời gian trước. T đã nhắn tin chào bán ma túy trên hệ thống Messenger cho Phạm Văn N với giá 200.000đ, địa điểm hẹn mua bán ma túy tại khu vực cồn cát thuộc thôn Lê Lợi, xã Nga Thủy. Hành vi sử dụng ma túy của N do trong cơ thể đã sử dụng rượu trước đó nên bị cáo ngồi bất động ven đường, đã bị lực lượng công an phát hiện, kiểm tra và thu giữ lượng ma túy còn lại N bỏ trong túi quần đang mặc. Từ hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” để sử dụng của N, cơ quan Công an huyện Nga Sơn đã làm rõ hành vi mua bán ma túy đối với Phan Văn T.

Tang vật vụ án thu giữ được của N là 01 gói ma túy còn lại có khối lượng 0,308 g (không phẩy ba không tám gam) loại heroinne; 01 xilanh dung tích 3ml/cc.

Tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản niêm phong đồ vật, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, hành vi của bị cáo Phạm Văn N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS;

Phan Văn T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Các bị cáo Phạm Văn N, Phan Văn T đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức rõ về hành vi tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy và mua bán chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của bị cáo có tính chất và mức độ rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân.

Bị cáo T đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc năm 2019 với thời hạn 24 tháng. Tuy nhiên, bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân, mà lại có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” cho Phạm Văn N.

[4] Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo N theo quy định tại khoản khoản 5 Điều 249 và bị cáo T theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS.

[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo N có nhân thân tốt; bị cáo T có nhân thân xấu.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Ngoài ra, bị cáo T đầu thú nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[6] Từ những đánh giá trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội thời gian mới đủ tác dụng giáo dục các bị cáo thành công dân biết chấp hành pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Cần tịch thu tiêu hủy: 01 xilanh dung tích 3ml/cc, đã qua sử dụng; 01 Phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên: Lê Minh Tn, Nguyễn Trần Đ, Nguyễn Văn M và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa bên trong có chứa toàn bộ bao gói mở niêm phong của phong bì gửi giám định và 0,279g chất màu trắng, dạng cục vụn là mẫu vật còn lại sau giám định.

Truy thu số tiền 200.000đ bị cáo T đã bán ma túy cho N.

[8] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải nộp tiền án phí HSST theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo N);

- Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo T);

* Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo Phan Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn N 18 (Mười tám) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (25/01/2022).

Bị cáo Phan Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (26/01/2022).

* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 xilanh dung tích 3ml/cc, đã qua sử dụng; 01 Phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên: Lê Minh Tn, Nguyễn Trần Đ, Nguyễn Văn M và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa bên trong có chứa toàn bộ bao gói mở niêm phong của phong bì gửi giám định và 0,279g chất màu trắng, dạng cục vụn là mẫu vật còn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/5/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nga Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Truy thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 200.000đ bị cáo T đã bán ma túy cho N.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc các bị cáo N, T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

401
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy số 20/2022/HSST

Số hiệu:20/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;