Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuýsố 04/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 14/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 14 tháng 11 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng và tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an thành phố Hải Phòng; Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

DVT, sinh ngày 14 tháng 4 năm 1988 tại Hải Dương; nơi cư trú: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông D và bà E; có vợ là F, sinh năm 1999 (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án: Tại Bản án số 21/2022/HSST ngày 28/4/2022, Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chât ma túy” (chưa xóa án tích); tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 97/2006/HSST ngày 03/8/2006 Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; bị bắt tạm giữ ngày 22/6/2023, chuyển tạm giam ngày 26/6/2023; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 15 phút ngày 21/6/2023, tổ công tác Công an phường Hùng Vương làm nhiệm vụ tại khu vực trước số G, phường H, quận M, thành phố Hải Phòng phát hiện DVT điều khiển xe mô tô chở I, sinh năm 1989; nơi cư trú: thôn J, xã B, huyện C, tỉnh Hải Dương có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy, lực lượng Công an đã yêu cầu DVT và I về trụ sở để làm rõ. Tại trụ sở Cơ quan Công an qua kiểm tra đã phát hiện thu giữ trong túi áo bên trái phía trước của DVT đang mặc có 01 túi nilon bên trong chứa chất màu trắng dạng cục (nghi ma túy). Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và tạm giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát: 34N5-X.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của DVT tại thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Hải Dương không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại bản Kết luận giám định về ma túy số 555/KL-KTHS (MT) ngày 23/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “chất bột màu trắng của mẫu QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,17 gam, loại Heroine (Heroin)”.

Tại Cơ quan điều tra, DVT khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 14 giờ 00 phút ngày 21/6/2023, DVT mượn điện thoại của một người nam giới mới quen (không biết tên và địa chỉ) liên lạc nhờ I qua đón DVT để đi có việc cá nhân ở thành phố Hải Phòng. I đồng ý và điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 34N5-X đến điểm hẹn đón DVT. Do chân I đau nên DVT điều khiển xe mô tô chở I ngồi sau đến khu vực đường tàu K, quận L, thành phố Hải Phòng tìm mua ma túy Heroine để sử dụng cho bản thân (việc mua ma túy DVT không nói cho I biết). Tại đây, DVT dừng xe trước ngõ (chưa xác định được địa chỉ) và bảo I ở ngoài chờ, DVT đi bộ vào trong ngõ khoảng 100 mét thì dừng lại trước một căn nhà bên phải (không có địa chỉ), đưa qua ô cửa số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng để mua ma túy Heroine. Lúc này có một người (không biết là nam giới hay nữ giới) dùng tay nhận tiền của DVT và đưa lại cho DVT 01 túi nilon bên trong chứa ma túy Heroin qua ô cửa. DVT nhận ma túy cất vào túi áo bên trái phía trước đang mặc rồi đi bộ ra chỗ I đợi và điều khiển xe chở I đi về. Khi đi đến khu vực trước số G, phường H, quận M, thành phố Hải Phòng thì bị lực lượng Công an yêu cầu về trụ sở kiểm tra, phát hiện bắt quả tang như nội dung trên. Toàn bộ số ma túy bị Công an thu giữ, DVT cất giấu để sử dụng dần cho bản thân.

Lời khai của bị cáo phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, lời khai người chứng kiến; Kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Về vật chứng: số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao bì theo niêm phong số 555MT/PC09 chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát: 34N5-X qua xác minh là tài sản hợp pháp của anh I. Ngày 21/6/2023, I không biết DVT sử dụng để đi mua ma túy, hiện I vắng mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau.

Tại Bản Cáo trạng số 98/CT-VKSHB ngày 16/10/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo DVT về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung trên, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, Bản Kết luận giám định ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo DVT với mức án từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư dán kín trong có số ma túy còn lại sau giám định có dấu niêm phong số 555MT/PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự (PC09) Công an thành phố Hải Phòng.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát: 34N5-X qua xác minh là tài sản hợp pháp của anh I. Ngày 21/6/2023 anh I không biết DVT sử dụng để đi mua ma túy, hiện anh I vắng mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về tài liệu, chứng cứ Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên thu thập; bị cáo cung cấp đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[3] Tại phiên tòa, bị cáo DVT đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung trên, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, Bản Kết luận giám định ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 21/6/2023, tại khu vực trước số G, phường H, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, DVT có hành vi tàng trữ trái phép 0,17 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang. Tại thời điểm thực hiện hành vi (ngày 21/6/2023), bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự; bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

- Đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm hình sự khác.

- Xét về nhân thân của bị cáo:

[5] Bị cáo có 02 tiền án: Tại Bản án số 21/2022/HSST ngày 28/4/2022, Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chât ma túy” (chưa xóa án tích); nhân thân: Tại Bản án số 97/2006/HSST ngày 03/8/2006 Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (đã được xóa án tích), nên cần đánh giá bị cáo có nhân thân xấu.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[6] Do Bản án số 21/2022/HSST ngày 28/4/2022, Toà án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xử 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[7] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ, trên cơ sở đề nghị của Kiểm sát viên và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa; sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, bắt bị cáo phải chấp hành tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phát huy tác dụng răn đe, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung:

[9] Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ và xét hỏi tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có tài sản, không nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

[10] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư dán kín trong có số ma túy còn lại sau giám định có dấu niêm phong số 555MT/PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Hải Phòng.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát: 34N5-X qua xác minh là tài sản hợp pháp của anh I. Ngày 21/6/2023 anh I không biết DVT sử dụng để đi mua ma túy, hiện anh I vắng mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[11] Bị cáo DVT phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[12] Bị cáo DVT được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Trong vụ án này:

[13] Đối với đối tượng bán ma túy cho DVT ở khu vực ngõ đường tàu K, quận L, thành phố Hải Phòng quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch, địa chỉ Cơ quan điều tra Công an quận Hồng Bàng tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: DVT 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22 tháng 6 năm 2023.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư dán kín trong có số ma túy còn lại sau giám định có dấu niêm phong số 555MT/PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Hải Phòng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo DVT phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo DVT được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuýsố 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;