Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 99/2022/HS-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21/4/2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2022/TLST-HS ngày 23/3/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2022/QĐXXST-HS ngày 07/4/2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lương Anh Q - Sinh ngày: 15/01/1996, tại: Đắk Lắk;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và Chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk;

Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; con ông: Lương Vũ C, sinh năm: 1976 và bà: Trương Thị B, sinh năm: 1978, hiện trú tại: Thôn T, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: 03.

Ngày 27/12/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Búk xử phạt 04 (bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 40/2012/HSST).

Ngày 11/4/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Búk xử phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 10/2014/HSST). Ngày 26/4/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án 228/2014/HSPT).

Ngày 30/9/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Búk xử phạt 02 năm 06 (sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và 03 (ba) năm tù về tội Cướp giật tài sản. Tổng hợp hình phạt, buộc chấp hành: 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù (Bản án số 54/2015/HSST). Ngày 30/11/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm 06 (sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và 04 (bốn) năm tù về tội Cướp giật tài sản. Tổng hợp hình phạt, buộc chấp hành: 06 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù (Bản án số 505/2015/HSPT). Ngày 27/4/2021, chấp hành xong hình phạt.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/11/2021 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Thanh T (Tên gọi khác: C) - Sinh ngày: 21/9/1996, tại: Đắk Lắk;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và Chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk;

Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn : 10/12; con ông: Lê Xuân N, sinh năm: 1975 và bà: Lê Thị T, sinh năm: 1975, hiện trú tại: Thôn B, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Như Th, sinh năm: 1998 và 01 con nhỏ, sinh năm: 2016, hiện đều trú tại: Thôn B, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Ngày 28/9/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Búk xử phạt 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 49/2015/HSST).

Ngày 30/11/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Búk xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt Bản án số 49/2015/HSST, buộc chấp hành hình phạt: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù (Bản án số 61/2014/HSST). Ngày 12/12/2017, chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/11/2021 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Đinh Xuân V - Sinh năm: 1994, địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt) 2. Ông Lương Vũ C – Sinh năm: 1976, địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Hoàng Tr – Sinh năm: 1982, địa chỉ: Số A đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

2. Ông Phan Đình H – Sinh năm: 1976, địa chỉ: Số B đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Anh Q và Lê Thanh T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine (hay còn gọi là ma túy đá). Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 23/11/2021, Lê Thanh T đang ở nhà thì Lương Anh Q đến chơi. Tại đây, T không biết địa điểm mua ma túy nên nhờ Q mua giúp 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) ma túy để cùng nhau sử dụng. Q sử dụng số thuê bao 0379.222.AAA gọi vào số thuê bao 0947.102.AAA của đối tượng tên T1 (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy đá với số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) thì T1 đồng ý và hẹn giao dịch tại khu vực đường V. Sau đó, Q điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47U1 - 036.29 chở T đến điểm hẹn gặp T1. Đến nơi, T và Q gặp T1 chở theo một phụ nữ (chưa xác định nhân thân, lai lịch), T đưa cho T1 số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) thì người phụ nữ này đưa cho T 01 (một) gói nylon bên trong chứa ma túy đá. T cất giấu gói ma túy đá trong lòng bàn tay phải rồi cùng Q ra về. Khi đi đến khu vực Ngã tư đường N thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong lòng bàn tay phải của T 01 (một) gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (T và Q đều khai nhận đây là chất ma túy đá mua để sử dụng được niêm phong theo quy định pháp luật).

Tại bản Kết luận giám định số 1124/GĐMT - PC09 ngày 01/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) gói nylon được niêm phong giám định là Ma túy, có khối lượng 9,2101 gam, loại: Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 107/CT-VKS ngày 23/3/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố các bị cáo Lương Anh Q và Lê Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lương Anh Q và Lê Thanh T thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của các bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Anh Q từ 08 (Tám) năm đến 09 (Chín) năm tù.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Thanh T 07 (Bảy) năm đến 08 (Tám) năm tù.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đề nghị tịch thu, tiêu huỷ 9,1439 gam chất ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1124/GĐMT-PC09 ngày 01/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

Đề nghị tịch thu, sung ngân sách Nhà Nước 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Samsung Galaxy J7, màu đen, kèm theo sim số 0379.222.161 của Lương Anh Q sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội.

Đề nghị trả lại cho Lê Thanh T 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone, màu vàng kèm theo sim số 0941.310.426 đây là tài sản của bị cáo không liên quan hành vi phạm tội nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Các vấn đề khác đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận như nội dung đã nêu tại bản Cáo trạng.

Các bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Lương Anh Q và Lê Thanh T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 23/11/2021, tại khu vực ngã tư đường N, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang Lương Anh Q và Lê Thanh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng:

9,2101 gam loại Methamphetamine. Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố các bị cáo Lương Anh Q và Lê Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 249 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật. Cụ thể:

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

g, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

o) Tái phạm nguy hiểm.

Các bị cáo có đủ năng lực hành vi dân sự để nhận thức được Methamphetamine là chất ma túy gây nghiện, làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật về hình sự tại địa phương, nhưng do ý thức coi thường pháp luật, các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm sự thống nhất quản lý ma túy của Nhà nước. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và vai trò khi thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo.

[3] Về tiền án, tiền sự: Bị cáo Lương Anh Q có 03 tiền án vào các năm 2012, 2014 và 2015, đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại cố ý tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy bị cáo Lương Anh Q là người trực tiếp liên hệ đối tượng tên T1 để mua ma túy, có 03 tiền án nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà còn tiếp tục phạm tội, bên cạnh đó bị cáo Q bị áp dụng 02 tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 BLHS, còn bị cáo Lê Thanh T bị áp dụng 01 tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS, vì vậy cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Q nghiêm khắc hơn so với bị cáo T, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian mới có đủ điều kiện và thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu huỷ 9,1439 gam chất ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1124/GĐMT-PC09 ngày 01/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Samsung Galaxy J7, màu đen, kèm theo sim số 0379.222.161 của Lương Anh Q sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội.

Trả lại cho Lê Thanh T 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone, màu vàng kèm theo sim số 0941.310.426 đây là tài sản của bị cáo không liên quan hành vi phạm tội nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

[7] Các vấn đề khác:

Đối với xe mô tô nhãn hiệu SYM, loại Galaxy, màu xanh đen, mang biển kiểm soát 47U1 - 036.29; số khung RLGMD11HDD004733, số máy VMVBACD004733 do ông Đinh Xuân V, sinh năm 1994, trú tại thôn H đứng tên chủ sở hữu. Quá trình điều tra xác định: Ngày 04/01/2018, ông V đã bán xe mô tô này cho ông Lương Vũ C, sinh năm: 1976, trú tại: Thôn T, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk là cha ruột của Lương Anh Q. Ngày 23/11/2021, ông C cho Q mượn xe mô tô 47U1 - 036.29 sử dụng làm phương tiện đi lại. Ông C không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của Q nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng trả chiếc xe mô trên cho ông Lương Vũ C nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của các bị cáo Lương Anh Q và Lê Thanh T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp;

Đối với đối tượng nam giới có tên gọi là T1 có số thuê bao điện thoại 0947.102.803 và người phụ nữ đi cùng đã bán ma túy cho Q, T. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và có công văn đề nghị Công ty viễn thông cung cấp thông tin liên quan đến thuê bao di động của T1 nhưng hiện vẫn chưa có kết quả. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột tách hành vi của các đối tượng ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau.

[8] Về án phí: Các bị cáo Lương Anh Q và Lê Thanh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Lương Anh Q, bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lương Anh Q: 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam, ngày 23/11/2021.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lê Thanh T: 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam, ngày 23/11/2021.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Tịch thu, tiêu huỷ 9,1439 gam chất ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1124/GĐMT-PC09 ngày 01/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Samsung Galaxy J7, màu đen, kèm theo sim số 0379.222.161 của Lương Anh Q.

Trả lại cho Lê Thanh T 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone, màu vàng kèm theo sim số 0941.310.426, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

(Đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/3/2022 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B)

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Q hội. Các bị cáo Lương Anh Q và Lê Thanh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2022/HS-ST

Số hiệu:99/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;