TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 70/2021/HSST NGÀY 24/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24/8/2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 59/2021/HSST ngày 26/7/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2021/QĐXXST-HS ngày 10/8/2021 đối với các bị cáo:
1. Đoàn Văn C, sinh năm 1996 tại G, Hải Dương; nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị V (đã chết); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/5/2021 đến ngày 28/5/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; có mặt.
2. Trần Đức M, sinh năm 1996 tại C, Hải Dương; nơi cư trú: Khu dân cư T, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức S (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 119 ngày 01/3/2017 của Công an thị xã Chí Linh (nay là thành phố Chí Linh) xử phạt Trần Đức M 1.000.000đ về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/5/2021 đến ngày 28/5/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; có mặt.
* Người làm chứng: Anh Lê Văn Đ, sinh năm 1970;
Địa chỉ: Khu dân cư N, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 25/5/2021, Đoàn Văn C rủ Trần Đức M cùng đi mua ma túy về sử dụng, M đồng ý. C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu DAYANG, màu xanh, biển kiểm soát 99H1-7067 (xe của bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960, trú tại khu dân cư T, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương là mẹ đẻ của M) chở M đi đến khu vực ngã tư T thuộc phường S, thành phố C, M xuống xe đứng chờ để C đi mua ma túy. C đi đến đoạn đường thuộc khu dân cư T, phường S, thành phố C gặp và mua 500.000đ của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lý lịch) được 01 gói ma túy. C cầm gói ma túy bên tay trái rồi quay lại đón M. Trên đường đi tìm nơi sử dụng ma túy, C bỏ gói ma túy vừa mua cho M xem. Đến 16 giờ 20 phút cùng ngày, khi đi đến trước cổng nhà anh Lê Văn Đ ở khu dân cư N, phường C thì C và M bị Công an phường C và công an thành phố Chí Linh phát hiện. C sợ hãi nên vứt gói ma túy xuống dưới đất ngay vị trí C đang đứng. Lực lượng Công an đã thu giữ tại vị trí mặt đất ngay dưới chân C và M đứng 01 túi nilon màu trắng, kích thước (2x3)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, được niêm phong trong bì thư. C và M đều khai đó là ma túy, mục đích cất giấu để cả hai cùng sử dụng; thu giữ xe mô tô nhãn hiệu DAYANG, màu xanh, biển kiểm soát 99H1-7067.
Tại bản kết luận giám định số 290/KLGĐ-PC09 ngày 28/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng trong túi nilon được niêm phong trong phong bì gửi đến giám định có khối lượng là 0,511g là ma túy, loại Methamphetamine.
Bản Cáo trạng số 58/CT-VKS-CL ngày 26/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương truy tố các bị cáo Đoàn Văn C và Trần Đức M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Các bị cáo Đoàn Văn C và Trần Đức M thành khẩn khai nhận như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17; Điều 58; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Tuyên bố: Các bị cáo Đoàn Văn C và Trần Đức M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Đoàn Văn C từ 17 đến 20 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 25/5/2021. Xử phạt bị cáo Trần Đức M từ 14 đến 17 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 25/5/2021. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy:
01 phong bì niêm phong số 290/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương bên trong chứa 0,423g Methamphetamine và 01 vỏ túi nilon màu trắng hoàn lại sau giám định. Về án phí: Buộc mỗi bị cáo Đoàn Văn C và Trần Đức M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Chí Linh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của các bị cáo: Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ 20 phút ngày 25/5/2021, tại trước cổng nhà anh Lê Văn Đ ở khu dân cư N, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương, Đoàn Văn C và Trần Đức M có hành vi cất giấu trái phép 0,511g ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Công an phường C và Công an thành phố Chí Linh bắt quả tang.
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự và ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc cất giữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Xét vị trí, vai trò của các bị cáo thì thấy rằng đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó, Đoàn Văn C là người khởi xướng, trực tiếp liên hệ, mua và cất giấu trái phép ma túy nên giữ vai trò đầu vụ. Bị cáo M sau khi được C rủ rê đã thống nhất ý chí với C, cùng đi với C và giao xe cho C đi mua ma túy, nên M là người giúp sức, giữ vai trò sau bị cáo C.
[5] Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thì thấy rằng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo. Do vậy, các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Về nhân thân: Bị cáo C không có tiền án tiền sự, có nhân thất tốt; bị cáo M không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu: Ngày 01/3/2017 đã bị Công an thị xã Chí Linh (nay là thành phố Chí Linh) ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 119 xử phạt 1.000.000đ về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy", bị cáo chưa nộp phạt. Tuy nhiên, không có tài liệu, chứng cứ thể hiện bị cáo M có hành vi trì hoãn, trốn tránh thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên. Do vậy, đến ngày 01/3/2018, đã hết thời hiệu thi hành quyết định này theo quy định tại Điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính; ngày 01/3/2019 M không tái phạm nên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính đối với quyết định số 119 ngày 01/3/2017 của Công an thị xã Chí Linh theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính. Do vậy, chỉ xác định quyết định số 119 ngày 01/3/2017 của Công an thị xã Chí Linh là nhân thân mà không tính là tiền sự đối với bị cáo M.
[7] Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải có hình phạt nghiêm, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự các bị cáo có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo không có tài sản; nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Quá trình điều tra, công an có thu giữ của các bị cáo 0,511g Methamphetamine. Sau khi giám định, Cơ quan giám định hoàn lại 0,423g Methamphetamine và 01 vỏ túi nilon màu trắng đựng trong phong bì niêm phong số 290/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương. Methamphetamine là chất cấm tàng trữ, lưu hành; vỏ túi nilon màu trắng không có giá trị, do vậy, cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[10] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu DAYANG, màu xanh, biển kiểm soát 99H1-7067, đây không phải là công cụ, phương tiện dùng vào việc tàng trữ ma túy, không phải là vật chứng, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả chiếc xe này cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị H (mẹ đẻ bị cáo M) là phù hợp.
[11] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo C, quá trình điều tra không xác định được địa chỉ, nhân thân, lý lịch của người đàn ông này. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau là phù hợp.
[12] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17; Điều 58; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
1. Tuyên bố: Các bị cáo Đoàn Văn C và Trần Đức M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Đoàn Văn C 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 25/5/2021.
- Xử phạt bị cáo Trần Đức M 17 (Mười bảy) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 25/5/2021.
2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
3. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 290/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương bên trong chứa 0,423g Methamphetamine và 01 vỏ túi nilon màu trắng hoàn lại sau giám định.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/72021 giữa Công an thành phố Chí Linh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Chí Linh).
4. Về án phí: Buộc mỗi bị cáo Đoàn Văn C và Trần Đức M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Đoàn Văn C và Trần Đức M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2021/HSST
Số hiệu: | 70/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về