Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 81/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 81/2022/HS-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2022/HSST-QĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn S Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày: 27/7/1990 tại tỉnh N.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, phường H, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Phụ xây; Trình độ văn hóa (học vấn): 7/12 PT; Con ông: Hà Văn T và bà: Phạm Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: không, tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 2005 bị cáo bị UBND tỉnh Điện Biên ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng. Năm 2018 bị Công an huyện Đ, tỉnh Điện Biên xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã chấp hành xong các quyết định này (được coi là chưa bị áp dụng, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính). Bị tạm giữ từ ngày 18/12/2021 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 05 phút ngày 18/12/2021, tổ công tác Công an phường Th, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên đang làm nhiệm vụ tại khu vực Quốc lộ 12 thuộc Tổ dân phố A, phường Th, thành phố Đ phát hiện Hà Văn S đang điều khiển xe mô tô BKS 27B1 - 688.XX có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong gấu áo khoác S đang mặc 04 gói được gói bằng nilon màu trắng bên trong chứa 12 viên nén màu hồng trên một mặt của mỗi viên đều có ký hiệu WY. Hà Văn S khai nhận số ma túy đó là hồng phiến, S mua về để sử dụng cho bản thân.

Quá trình điều tra Hà Văn S khai nhận: Số ma túy bị thu giữ là Sơn nhờ một người thanh niên không quen biết ở khu vực Bản X, xã Th, huyện Đ mua hộ vào khoảng 11 giờ cùng ngày với giá 480.000 đồng và trả công cho người này 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo mang số ma túy về nhà, lấy mảnh nilon màu trắng chia làm 04 gói, cất giấu vào gấu áo của mình để sử dụng.

Vật chứng thu giữ gồm: 04 gói được gói bằng nilon màu trắng bên trong chứa 12 viên nén màu hồng tổng khối lượng 1,13 gam; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE & biển kiểm soát 27B1 - 688.xx kèm chìa khóa của xe, 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 0192xx mang tên Hà Văn S.

Tại bản kết luận giám định số 55/GĐ-PC09 ngày 26/12/2021 Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Khối lượng vật chứng ký hiệu H1: 0,38 gam; H2: 0,29 gam; H3: 0,27 gam; H4: 0,19 gam. 04 mẫu các viên nén màu hồng ký hiệu H1, H2, H3, H4 gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định H1: 0,29 gam; H2: 0,25 gam; H3: 0,24 gam; H4: 0,15 gam có biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định kèm theo.

Tại bản cáo trạng số 23/CT-VKSTPĐBP ngày 10/3/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Hà Văn S về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo từ 21 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,93 gam Methamphetamine vật chứng còn lại sau giám định và 04 mảnh nilon màu trắng.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc xe HONDA WAVE & biển kiểm soát 27B1 - 688.xx kèm chìa khóa của xe; 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 0192xx mang tên Hà Văn S.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, không bào chữa gì cho hành vi của mình.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định chất ma túy niêm phong lại vật chứng, Kết luận giám định... Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 12 giờ 05 phút ngày 18/12/2021 tại khu vực Tổ dân phố A, phường Th, thành phố Đ, Hà Văn S đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 1,13 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đa truy tố đôi vơi bị cáo là có căn cứ pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

[2]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52/BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy. Năm 2005 bị cáo bị UBND tỉnh Điện Biên ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng. Năm 2018 bị Công an huyện Đ, tỉnh Điện Biên xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã chấp hành xong các quyết định này được coi là chưa bị áp dụng, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng được coi là có nhân thân xấu. Tuy nhiên, do thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân nên đã sử dụng ma túy, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội.

Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục, cho bị cáo có thời gian cai nghiện để trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, hội đồng xét xử xét thấy có thể cho bị cáo mức hình phạt tù thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát, khuyến khích động viên bị cáo cải tạo tốt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung vì bị cáo không có khả năng thi hành.

[4]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:

Đối với 1,13 gam Methamphetamine thu giữ của bị cáo, sau khi gửi toàn bộ để giám định còn lại 0,93 gam là vật Nhà nước cấm tàng trữ; 04 mảnh nilon là vật dùng gói ma túy không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Đối với chiếc xe mô tô thu giữ của bị cáo nhãn hiệu HONDA WAVE & biển kiểm soát 27B1 - 688.xx kèm chìa khóa của xe, 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 0192xx mang tên Hà Văn S. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản riêng của bị cáo, bị cáo dùng xe vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[5]. Các vấn đề khác: Đối với đối tượng bị cáo khai đã mua hộ ma túy, quá trình điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đều hợp pháp.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Hà Văn S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Hà Văn S 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (18/12/2021).

2. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,93 gam Methamphetamine và 04 mảnh nilon màu trắng (đã niêm phong).

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu: HONDA, số loại: WAVE &; Màu sơn: Đỏ Đen Bạc; Biển kiểm soát 27B1 - 688.xx; Số khung: RLHJA3901HY4496xx, Số máy: JA39E04247xx kèm 01 (một) chìa khóa của xe, 01 (một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số: 0192xx tên chủ xe Hà Văn S do Phòng CSGT Công an tỉnh Điện Biên cấp ngày 09/12/2021.

(Vật chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/3/2022).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/4/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 81/2022/HS-ST

Số hiệu:81/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;