Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 80/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 80/2022/HS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 16 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 55/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 88/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

LÊ THÀNH L (tên gọi khác: Say), sinh năm 1993 tại tỉnh Bình Thuận.

Nơi cư trú: khu phố 7, phường L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê B (đã chết) và bà Cao Thị T (sinh năm 1960); anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con út trong gia đình; vợ: Nguyễn Thị T (sinh năm 1996), có 01 người con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Ngày 11/10/2011, bị Công an phường L ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (theo Quyết định số 117). Đã chấp hành xong Quyết định.

- Ngày 08/11/2011, bị Chủ tịch UBND phường L ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã, phường trong thời hạn 06 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (theo Quyết định số 189). Đã chấp hành xong Quyết định.

- Ngày 21/11/2012, bị TAND thành phố P xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (theo bản án Hình sự sơ thẩm số 194/2012/HSST). Ngày 08/9/2014, chấp hành xong hình phạt. Đã xóa án tích.

- Ngày 22/9/2015, bị TAND thành phố P xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo bản án hình sự sơ thẩm số 144/2015/HSST). Ngày 01/02/2018, chấp hành xong hình phạt. Đã xóa án tích.

Bị cáo đang tại ngoại tại địa phương và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 08/6/2021 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lê Thành L đến đường hẻm phía sau Nhà thi đấu tỉnh Bình Thuận (thuộc khu phố 1, phường Hưng Long, thành phố P) gặp đối tượng nữ tên Thanh (không rõ nhân thân) hỏi mua 500.000 (năm trăm ngàn) đồng tiền ma túy thì Thanh đưa cho L 01 gói nylon không màu, bên trong có 06 đoạn ống hút nhựa chứa ma túy. L nhận ma túy từ Thanh rồi mang đến căn nhà hoang tại khu phố 7, phường L, thành phố P. Khi L đang chuẩn bị sử dụng ma túy thì bị lực lượng tuần tra thuộc Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố P phối hợp với Công an phường L kiểm tra, bắt quả tang trên tay phải của L có 01 gói nylon không màu, hàn kín, có khóa nhựa kéo một đầu, bên trong có 06 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, trong mỗi đoạn ống đều có chứa chất bột màu trắng dạng nén, nghi là ma túy nên lực lượng tuần tra đã thu giữ những tang vật có liên quan và đưa L về trụ sở Công an phường L làm việc. Tại Cơ quan Công an, L thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nêu trên.

Vật chứng của vụ án:

- 01 gói nylon không màu, hàn kín, có khóa nhựa kéo một đầu, bên trong có 06 đoạn ống hút nhựa được hàn kín hai đầu, trong mỗi đoạn ống đều chứa chất bột màu trắng dạng nén (được niêm phong và kí hiệu M khi giám định).

- 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng.

* Tại Bản kết luận giám định số 887/KLGĐ-PC09 ngày 13/7/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2063 gam là Heroine.

- Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: Gói nylon và đoạn ống nhựa đã nêu tại mục II cùng 0,1673 gam mẫu M được niêm phong trong phòng bì số 887, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

* Xử lý vật chứng: Gói nylon đã cắt lấy mẫu, đoạn ống nhựa và 0,1673 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 887 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 ống kim tiêm, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P để bảo quản chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKSPT-HS ngày 18/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P quyết định, truy tố bị cáo Lê Thành L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P phát biểu quan điểm xử lý về vụ án như sau:

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Lê Thành L, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tù.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Lê Thành L từ 15 (mười lăm) tháng tù đến 21 (hai mươi mốt) tháng Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng theo quy định.

Đối với đối tượng tên Thanh đã bán ma túy cho L, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thành L xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng và không tranh luận gì, thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát và lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, theo hồ sơ đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Thành L không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo L thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên tòa nên có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 09 giờ ngày 08/6/2021, tại khu phố 7, phường L, thành phố P, Lê Thành L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2063 gam Heroin nhằm mục đích sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố P phối hợp với Công an phường L, thành phố P kiểm tra, bắt quả tang.

Bị cáo L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được tác hại nguy hiểm của ma túy đối với người sử dụng và nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng chất ma túy là trái pháp luật, nhưng do đua đòi ăn chơi và thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên bị cáo đã mua ma túy để phục vụ nhu cầu bản thân sử dụng. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cho nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố đối với bị cáo L là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, làm phức tạp tình hình an ninh trật tự ở địa phương, là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến việc thực hiện nhiều loại tội phạm khác. Ngoài ra, bị cáo đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị Tòa án tuyên xử tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Cướp giật tài sản”, thể hiện bản chất xem thường pháp luật của bị cáo. Chính vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa nhằm răn đe, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời giáo dục những người khác biết tôn trọng pháp luật, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu, thiếu ý thức chấp hành pháp luật; về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 (một) ống kim tiêm đã qua sử dụng; 01 (một) gói nylon không màu, một đầu có khóa kéo và 06 đoạn ống nhựa màu trắng đã cắt lấy mẫu cùng 0,1673 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 887, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Các vấn đề khác: Đối với đối tượng có tên thường gọi là Thanh bị cáo đã mua ma túy, Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được nhân thân, địa chỉ nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Lê Thành L, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: Lê Thành L 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt thi hành án.

2. Xử lý vật chứng: căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) ống kim tiêm đã qua sử dụng; 01 (một) gói nylon không màu, một đầu có khóa kéo và 06 đoạn ống nhựa màu trắng đã cắt lấy mẫu cùng 0,1673 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 887, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận (theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 79 ngày 19/5/2022).

3. Về án phí: căn cứ vào khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Thành L phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: căn cứ Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16/6/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 80/2022/HS-ST

Số hiệu:80/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;