Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 78/2021/HS-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Đức V, sinh ngày 03/10/1988 tại xã D, huyện H, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn K, xã D, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Đức T, sinh năm 1958 và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1960; có vợ là: Lại Thị H, sinh năm 1991 và 03 con, con lớn nhât sinh năm 2014, con nhỏ nhât sinh năm 2020; tiên an , tiền sư: Không; từ tháng 3/2007 đến tháng 8/2008 tham gia quân đội; bị tạm giữ từ ngày 22/6/2021 đến ngày 25/6/2021 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (có mặt).

Người chứng kiến:

- Ông Phạm Ngọc T, sinh năm 1973; nơi cư tru : Thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (văng măt).

- Ông Phạm Văn T, sinh năm 1972; nơi cư tru : Thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (văng măt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 08 giờ ngày 22/6/2021, tổ công tác Công an huyện Quỳnh Phụ làm nhiệm vụ tại khu vực ngã tư V thuộc địa phận thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình phát hiện Trần Đức V đi bộ, có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu V đứng lại để kiểm tra. Thây vây, V đa tha 04 gói nhỏ bằng giấy trắng có dòng kẻ xuống đường, tổ công tác yêu cầu nhặt lên cho vào túi quần bên phải phía trước V đang mặc, đưa về trụ sở Uỷ ban nhân dân xã A để làm việc. Tại đây, tổ công tác kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên phải phía trước V đang mặc 04 gói nhỏ nghi là ma túy có chung đặc điểm: Ngoài là giấy trắng có dòng kẻ, bên trong là chất bột màu trắng dạng cục; V khai các gói trên là ma túy vưa mua để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hyosung, sô loai classic sơn màu xanh biển số 17AA-43xyz của V dưng ơ lê đương gân đo không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo không phát hiện, thu giư gi.

Bản kết luận giám định số 245/KLGĐMT-PC09 ngày 23/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: “Vật chứng gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,3199 gam (không phẩy ba nghìn một trăm chín mươi chín gam).

Heroine STT: 9, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính Phủ”.

Tại phiên tòa bị cáo khai: Do nghiện ma túy nên sáng ngày 22/6/2021, bị cáo lây xe mô tô của bô bi cao đi đến khu vực ngã tư V thuộc địa phận thôn V, xã A, huyện Q tìm mua ma túy để sử dụng. Đến ngã tư V, bị cáo đi vào một ngõ nhỏ, dựng xe máy rồi đi bộ một đoạn thì gặp và mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi không quen biết 04 gói ma túy với số tiền 400.000 đồng. Bị cáo cầm 04 gói ma túy trong lòng bàn tay phải, đi bộ đến gân vị trí dựng xe thì găp tổ công tác công an huyện Quỳnh Phụ, do hoảng sợ bị cáo đã vứt 04 gói ma túy xuống đường, thì bị phát hiện băt qua tang.

Bản cáo trạng số 81/CT-VKSQP ngày 18/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Trần Đức V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Đức V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điêu 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/6/2021;

không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra, còn đề nghị về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm và các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo đã đủ tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thưc hiên là phạm tội vơi lôi cố ý trưc tiêp . Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đung như nôi dung cao trang đa mô ta va phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lơi khai cua ngươi chưng kiên có trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu , chưng cư sau: Biên ban băt ngươi phạm tội quả tang; biên bản quản lý, niêm phong đồ vật bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập và biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định giưa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ vơi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng ngày 22/6/2021; Kết luận giám định số 245/KLGĐMT-PC09 ngày 23/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ ngày 22/6/2021, tại khu vực thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, Trần Đức V đã có hành vi cât giâu trái phép trên người 04 gói ma tuy, loại Heroine (Hêrôin) có khối lượng 0,3199 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương . Mặc dù đông cơ pham tôi xuât phat tư viêc nghiên chât ma túy, mục đích để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, nhưng tệ nạn ma túy là mối quan tâm nhức nhối của toàn xã hội, ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, là nguyên nhân phát sinh nhiêu loại tội phạm khác; hành vi của bị cáo thể hiện ý thưc coi  thường pháp luâ,t,  tội phạm bị cáo thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng, vì vậy bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo đã gây. ra 

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đa phân tich trên thây cân thiêt ap dụng hình phạt tù có thời hạn , cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội môt thơi gian nhât đinh để răn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung, như mưc an đai diên Viên kiêm sat đê nghi là tương xưng vơi hanh vi cua bi cao.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, như vậy bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định , vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo, do đó cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 04 gói ma túy, kết quả giám định kết luận là ma túy loại heroine và hoàn trả mẫu vật sau giám định. Xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, do đó cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Hyosung, sô loai classic, biển số 17AA-43xyz bị cáo sử dụng khi đi mua ma túy , kêt qua điêu tra xac đinh là tài sản hợp pháp của ông Trần Đức T (bố đẻ bị cao ). Do bi cao không noi cho ông T biết bị cáo lây xe đi mua ma tuy , do đo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện đã trả lại chiếc xe trên cho ông T là đúng quy định pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Đức V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điêu 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo Trần Đức V 01 (Môt) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 6 năm 2021.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,2574 gam (Không phẩy hai nghìn năm trăm bảy mươi bôn gam) mâu vât gưi giam đinh và toàn bộ bao gói thu giư cua Trần Đức V trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 245/KLGĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

Vật chứng trên đang được chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện và chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 18/8/2021.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Đức V phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2021/HS-ST

Số hiệu:78/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;