Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 77/2021/HS-ST NGÀY 20/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 07 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2021/TLST- HS ngày 25 tháng 06 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2021/QĐXX - HSST ngày 07 tháng 07 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Chu Giang N, sinh năm: 1994, Nơi cư trú: Thôn Thuận Trại, xã P, huyện V, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Con ông: Chu Văn Th, sinh năm: 1970; Con bà: Phùng Thị H, sinh năm: 1974; Vợ: Hoàng Hồng Th, sinh năm: 1995; Con: Có 1 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, từ ngày 24/3/2021 đến ngày 30/3/2021 chuyển tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Chu Minh H, sinh năm: 1991, Nơi cư trú: Thôn Thuận Trại, xã P, huyện V, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Con ông: Chu Minh H, sinh năm 1960; Con bà: Trần Thị T, sinh năm: 1961; Vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm: 1992; Con: Có 1 con sinh năm 2019; tiền sự: Không; tiền án: có 02 tiền án; Bản án số 65/2013 ngày 28/6/2013, Tòa án nhân dân huyện V xử phạt Chu Minh H 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, buộc H phải bồi thường cho bị hại số tiền 3.000.000đ. H đã chấp hành xong hình phạt chính, án phí hình sự, án phí dân sự nhưng chưa bồi thường cho bị hại. Bản án số 26/2016 ngày 12/4/2016, Tòa án nhân dân huyện V áp dụng tình tiết tái phạm tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự 1999 xử phạt H 18 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, buộc H phải bồi thường cho anh Phùng Ngọc Quỳnh số tiền 3.200.000đ. H đã chấp hành xong hình phạt chính và tiền án phí hình sự, án phí dân sự nhưng tiền bồi thường thì chưa bồi thường cho bị hại; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/3/2021 đến ngày 30/3/2021chuyển tạm giam đến nay, tại Trại giam số 01 Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 06 giờ 45 phút ngày 24/3/2021, Công an xã Đ tiến hành kiểm tra hành chính tại quán internet biển hiệu “Bình Net” tại thôn Tri Lai, xã Đồng Thái, huyện V phát hiện và bắt quả tang 02 đối tượng là Chu Giang N và Chu Minh H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng dưới đất cạnh chỗ chân H đứng; 01 cóng thủy tinh trên tay phải H đang cầm. H và N đều khai nhận đó là ma túy đá mà N đưa cho H số tiền 1.000.000đ để H mua ma túy về để cả hai cùng sử dụng. Cả hai đã sử dụng một ít vào đêm 23/3/2021, còn lại ma túy thì H cất trong người để N và H tiếp tục sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang.

Kết luận giám định số 2406 ngày 30/3/2021 của phòng PC09 Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,336 gam. 01 coong thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine”.

Tại CQĐT H và N khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 23/3/2021, Chu Minh H và Chu Giang N đến quán game Bình Nét chơi game. Tại đây, N rủ H đi sử dụng ma túy. H bảo không có tiền thì N đưa cho H 01 triệu đồng. Sau khi cầm tiền, H vào Facebook với tài khoản “H Công Tử” nhắn tin cho tài khoản “Hùng Mạnh” thường gọi là Hùng Chó ở Chợ Mơ, xã Vạn Th, huyện V hỏi mua 01 triệu tiền ma túy đá. Hùng đồng ý bán ma túy cho H và hẹn đến khu vực cổng làng Hậu Trạch, xã Vạn Th, huyện V để giao dịch. Sau đó, H và N bắt taxi đi đến chỗ hẹn. Khi đến nơi, N ngồi trên xe còn H xuống xe đi vào bên trong cổng làng thì gặp 01 thanh niên khoảng 18 tuổi, N thanh niên này hỏi H “có phải chờ anh Hùng không” thì H trả lời “Ừ” và đưa cho người này 01 triệu đồng. Người này cầm tiền rồi chỉ cho H đến một cột mốc ở ven đường dẫn lên cầu Văn Lang để lấy ma túy. Theo chỉ dẫn của người này, H đi đến cột mốc và lấy được 01 túi ma túy đá. H cất túi ma túy rồi quay lại xe taxi cùng N đi sử dụng. H và N đi vào 01 khu vườn hoang rồi lấy một ít ma túy đá vừa mua được ra cho vào 01 coóng tự chế để sử dụng ma túy. Số còn lại, H cất trong túi nilong rồi để trong ống tay bên trái áo H đang mặc. Sau đó, H và N quay lại quán Bình Nét tiếp tục chơi game. Đến khoảng 06 giờ 45 phút ngày 24/3/2021,thì lực lượng Công an xã Đồng Thái kiểm tra hành chính. Do sợ hãi nên H đã đứng dậy, đi về phía máy số 14 rồi dùng tay phải lấy túi ma túy và chiếc coong tự chế thả xuống nền nhà cạnh vị trí H đứng. Đúng lúc này thì bị lưc lượng Công an xã Đồng Thái phát hiện và bắt quả tang.

Cơ quan CSĐT đã tiến hành kiểm tra, đăng nhập vào tài khoản Facebook của H nhưng không đăng nhập được.

Tiến hành xác minh tại xã Vạn Th xác định có 01 người tên là Lê Mạnh Hùng thường được gọi là “Hùng chó”. CQĐT đã tiến hành ghi lời khai của Hùng, Hùng khai nhận không bán ma túy cho H bao giờ. Tiến hành đối chất giữa Hùng và H thì Hùng vẫn khẳng định không bán ma túy cho H ngày 23/3/2021. Tiến hành kiểm tra tài khoản Facebook của Hùng xác định Hùng có kết bạn với tài khoản “H Công Tử”. Kiểm tra lịch sử liên lạc thấy không có liên lạc nào giữa tài khoản của Hùng và tài khoản “H Công Tử”.

Về vật chứng và đồ vật thu giữ:

- 01 phong bì niêm phong tang vật bên trong chứa chất ma túy do Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội hoàn trả sau giám định;

- 01 coong thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine.

Vật chứng trên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V ra Quyết định chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện V để phục vụ quá trình giải quyết vụ án.

* Bản cáo trạng số: 64/CT-VKS ngày 22 tháng 06 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Chu Giang N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; truy tố bị cáo Chu Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện V, thành phố Hà Nội tham gia phiên toà giữ quyền công tố phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Chu Giang N về tội danh “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình 2015; bị cáo Chu Minh H về tội danh“ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo qui định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình 2015;

* Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Bộ luật hình 2015, xử phạt bị cáo Chu Giang N từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Áp dụng: Điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Bộ luật hình 2015, xử phạt bị cáo Chu Minh H từ 05 năm 6 tháng đến 06 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong tang vật bên trong chứa chất ma túy do Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội hoàn trả sau giám định;

01 coóng thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa các bị cáo Chu Giang N, Chu Minh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, thành phố Hà Nội đã nêu. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, biên bản bắt người phạm tội của quả tang, tang vật cơ quan điều tra thu giữ. Kết luận giám định số 2406 ngày 30/3/2021 của phòng PC09 Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,336 gam. 01 coong thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine”. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận vào đêm ngày 23/3/2021, Chu Giang N đưa cho Chu Minh H 01 triệu đồng để đi mua ma túy loại Methamphetamine về để N và H sử dụng. Sau khi H mua được ma túy về thì H và N đã sử dụng một phần, phần ma túy còn lại H cất giữ trong người rồi cùng với N đến quán Internet biển hiệu “Bình Nét” ở thôn Tri Lai, xã Đồng Thái, huyện V ngồi chơi. Đến khoảng 06 giờ 45 ngày 24/3/2021, thì bị Công an xã Đồng Thái, huyện V bắt quả tang H và N đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,336 gam cùng 01 chiếc coong thủy tinh có bám dính chất ma túy Methamphetamine. Hành vi phạm tội của bị cáo Chu Giang N đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt được quy định tại c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với bị cáo Chu Minh H đã có 02 tiền án chưa được xóa, bị cáo phạm tội lần này là “tái phạm nguy hiểm”. Do vậy: Viện kiểm sát V truy tố bị cáo H về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với người đàn ông H khai bán ma tuý cho H: tên là Lê Mạnh Hùng (SN 1996, trú tại Chợ Mơ – Vạn Thắng) thường được gọi là “Hùng chó”. Quá trình điều tra xác minh. Cơ quan điều tra không đủ căn cứ đề xem xét trách nhiệm hình sự trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[3] Về tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy mà còn gây tổn hại đến sức khỏe, nòi giống con người, ảnh hưởng lớn đến mái ấm, hạnh phúc của từng gia đình, gây mất trật tự trị an xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện mà ma túy còn là độc dược do Nhà nước thống nhất quản lý, mọi hành vi mua bán, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy đều vi phạm pháp luật. Nhưng các bị cáo vẫn có hành vi tàng trữ trái phép ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,336 gram. Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Xét về nhân thân của các bị cáo: Bị cáo Chu Giang N chưa có tiền án, tiền sự.

Bị cáo Chu Minh H có 2 tiền án. Ngày 28/6/2013 Tòa án nhân dân huyện V xử phạt Chu Minh H 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ngày 12/01/2014 H đã chấp hành xong hình phạt tù ra trại trở về địa phương nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân. tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Ngày 08/7/2015 lợi dụng lòng tin của anh Vũ Công N bị cáo mượn xe máy của anh N rồi đi cắm lấy tiền tiêu xài nên ngày 12/4/2016, Tòa án nhân dân huyện V áp dụng tình tiết tái phạm tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS 1999 xử phạt H 18 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Ngày 28/4/2017 bị cáo H đã chấp hành xong hình phạt tù ra trại trở về địa phương. Nay tiếp tục phạm tội. Do vậy bị cáo phạm tội lần này là thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.

Sau khi xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc để cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian theo quy định tại Điều 38 BLHS năm 2015. Như vậy mới có thể giúp các bị cáo nhận ra những sai lầm của mình để cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

Tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự còn quy định người phạm tội có thể bị phạt bổ sung từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên xét thấy tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì các bị cáo không có công ăn việc làm, thu nhập ổn định, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phòng do phòng KTHS Công an thành phố Hà Nội hoàn trả sau giám định; 01 coóng thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine.

- Về án phí: Áp dụng điều khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết : 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Xử: Tuyên bố bị cáo Chu Minh H, bị cáo Chu Giang N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: Điểm c, Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Chu Giang N 24 ( Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 24/3/2021.

3. Áp dụng: Điểm o, Khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Chu Minh H 66 ( Sáu mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 24/3/2021.

3. Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong tang vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội hoàn trả sau giám định.

- 01 ống thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/07/2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện V và CQĐT Công an huyện V).

4. Án phí : Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Các bị cáo Chu Giang N và Chu Minh H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2021/HS-ST

Số hiệu:77/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;