Bản án tàng trữ trái phép chất ma túy số 59/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 59/2021/HS-ST NGÀY 23/03/2021 TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2021/TLST- HS ngày 29 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Ngọc Tr, sinh năm 1972 tại tỉnh Nam Định. Nơi cư trú: Số x, phường x, thành phố x, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Ngọc xvà bà Trần Thị x; vợ: Trần Thị Bích x; có 01 con; tiền án: Ngày 06-3- 2013 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10-9-2018); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21-8-2006 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 18-5-2010 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 36 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 04-3-2020 Công an phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định xử phạt hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; tạm giữ từ ngày 01-01-2021 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ – Công an thành phố Nam Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 31-12-2020, tổ công tác Công an phường Thống Nhất, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà x, phường x, thành phố Nam Định phát hiện Trần Ngọc Tr đang điều khiển xe máy BKS: 18B2-xx có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình bắt giữ, tổ công tác đã thu giữ 01 gói giấy bạc màu trắng Tr thả từ trên tay trái xuống đất, mở kiểm tra bên trong có chứa bột dạng cục màu trắng (Tr khai là gói Heroin của mình vừa mua chưa kịp sử dụng). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng, đưa Tr và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường Thống Nhất, thành phố Nam Định lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoải ra còn thu giữ của Tr 01 xe máy BKS: 18B2-xx.

Bản kết luận giám định số 1259/GĐKTHS ngày 06-01-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Trần Ngọc Tr được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng mẫu: 0,119 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Ngọc Tr khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 31-12-2020, Tr điều khiển xe máy BKS: 18B2-26615 từ nhà sang khu vực x, thành phố x mục đích mua ma túy để sử dụng. Đến nơi, Tr gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết 01 gói Heroin với giá 50.000 đồng. Khi đi đến trước cửa số nhà x, phường x, thành phố x thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Đối với đối tượng đã bán gói ma tuý cho Tr, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định chưa đủ căn cứ kết luận nên tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với chiếc xe máy BKS: 18B2-xx, sau khi xác minh Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định đã trả lại cho chủ sở hữu là bà Trần Ngọc T, sinh năm 1963; trú tại: x, phường x, thành phố Nam Định.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số 38/CT-VKSTPNĐ ngày 28 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trần Ngọc Tr tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Ngọc Tr về tội danh, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc Tr phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Ngọc Tr từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về tội danh: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 31-12-2020, Trần Ngọc Tr đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,119 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ tại khu vực trước cửa số nhà x, phường xu, thành phố x.

Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Ngọc Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tình tiết định khung:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Trần Ngọc Tr đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

5.1. Về hình phạt chính:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội; vì vậy áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố. Xét bị cáo có nhân thân xấu nên ấn định mức hình phạt như đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ.

5.2. Về hình phạt bổ sung:

Xét bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng; bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Số ma túy bị thu giữ trong vụ án được niêm phong trong phong bì niêm phong số 17/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc Tr phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Tr 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01-01-2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 17/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật Hình sự công an tỉnh Nam Định.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

3. Về án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Trần Ngọc Tr phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Bị cáo Trần Ngọc Tr được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án Dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

613
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án tàng trữ trái phép chất ma túy số 59/2021/HS-ST

Số hiệu:59/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;