Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 73/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2023/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu T, sinh năm 1998, tại huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Đạo C; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Lê Thị Kim X; chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự: chưa;

Bị tạm giữ từ ngày 28/8/2023 đến ngày 06/9/2023 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1981; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; có mặt.

Người làm chứng:

- Bà Lê Thị Kim X; có mặt.

- Ông Trần Tân K; vắng mặt.

- Ông Nguyễn Hoàng T1; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 28/8/2023, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Đội Cảnh sát giao thông, trật tự kết hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy - Công an huyện C bắt quả tang Nguyễn Hữu T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực khóm L, thị trấn C. Lực lượng Công an thu giữ 01 bọc nilon được hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng. T khai là ma túy đá mua của người lạ ở xã L, mục đích để sử dụng.

- Vật chứng thu giữ: 01 bịch nilon được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ bên ngoài màu đen, có lắp hai thẻ sim cùng mạng V và 01 xe mô tô biển số 66L3-X.

- Kết luận giám định số 173/KL-KTHS(MT-GT) ngày 01/9/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh A: Mẫu gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2319 gam.

Ngày 06/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C khởi tố Nguyễn Hữu T để điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 10 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Văn M, người làm chứng bà Lê Thị Kim X cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Pháp luật nghiêm cấm mọi hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy dưới mọi hình thức. Methamphetamine là chất ma túy. Nguyên nhân phạm tội do bị cáo bị nghiện, xem thường pháp luật nên mua ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo bị nghiện, thu nhập không ổn định nên đề nghị không áp dụng.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy 01 bịch nilon được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ bên ngoài màu đen, có lắp hai thẻ sim cùng mạng V1; giao trả cho ông Nguyễn Văn M 01 xe mô tô biển số 66L3-X.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Nguyễn Hữu T khai nhận, khoảng 20 giờ ngày 28/8/2023, bị cáo mượn xe mô tô biển số 66L3-X của ông Nguyễn Văn M chạy đến khu vực Cầu C, thuộc huyện T, tỉnh Đồng Tháp để chơi. Do người bạn tên H (không rõ họ, địa chỉ) gọi điện thoại hỏi chuyện nên bị cáo nhờ người tên H giới thiệu mua ma túy với số tiền 200.000 đồng để sử dụng. Khoảng 10 phút sau, người tên H gọi điện thoại lại, yêu cầu bị cáo cung cấp đặc điểm của bị cáo để người bán ma túy biết và kêu bị cáo đến đoạn đường gần bến đò Chợ Thủ, bờ huyện C để nhận ma túy. Bị cáo đến điểm hẹn, chờ khoảng 20 phút thì có người nam đeo khẩu trang, chạy xe mô tô (không nhớ biển số) đến giao cho bị cáo 01 bọc ma túy và nhận của bị cáo 200.000 đồng. Bị cáo giấu bọc ma túy vào túi quần bên phải rồi điều khiển xe mô tô tìm nơi sử dụng. Khi đến đoạn đường gần cầu T, bị cáo bị lực lượng Công an kiểm tra, thu giữ 01 bọc nilon được hàn kín, bên trong chứa ma túy và các vật chứng khác có liên quan.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 28/8/2023 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C lập; biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 29/8/2023 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C lập; lời khai của ông Trần Tân K, ông Nguyễn Hoàng T1 về việc chứng kiến lực lượng Công an kiểm tra, thu giữ của bị cáo 01 bịch nilon chứa chất tinh thể màu trắng và các vật chứng khác có liên quan vào khoảng 21 giờ ngày 28/8/2023. Khi đó, bị cáo khai chất tinh thể màu trắng trong 01 bọc nilon là ma túy đá; lời khai của ông Nguyễn Văn M, bà Lê Thị Kim X về việc ông M có cho bị cáo mượn xe mô tô biển số 66L3-X vào khoảng 20 giờ ngày 28/8/2023, với mục đích chạy đi chơi.

Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ khi bắt quả tang gồm: 01 bịch nilon được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ bên ngoài màu đen, có lắp hai thẻ sim cùng mạng V và 01 xe mô tô biển số 66L3-X.

Theo Kết luận giám định số 173/KL-KTHS(MT-GT) ngày 01/9/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh A, chất tinh thể màu trắng bên trong 01 bọc nilon thu giữ của bị cáo được giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2319 gam.

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2319 gam.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Tệ nạn ma túy được xem là nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống; làm phát sinh các tệ nạn xã hội, tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo là người thành niên, đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Do đó, cần có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm của người liên quan:

- Bị cáo khai, lượng ma túy bị thu giữ được bị cáo mua của người thanh niên lạ do người tên H giới thiệu. Do chưa xác định được họ tên, địa chỉ của người thanh niên bán ma túy cho bị cáo, người tên H giới thiệu để bị cáo mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C tiếp tục làm rõ, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

- Ông Nguyễn Văn M có hành vi cho bị cáo mượn xe mô tô biển số 66L3- X nhưng không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện nhận ma túy. Cho nên, trách nhiệm hình sự không đặt ra đối với ông M là phù hợp quy định pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Lượng ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang bị cáo là vật cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO, có lắp 02 thẻ sim mạng Viettel được bị cáo sử dụng liên lạc mua ma túy nên là phương tiện phạm tội. Vì vậy, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước điện thoại di động hiệu OPPO cùng sim số kèm theo theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 xe mô tô biển số biển số 66L3-X, ông Nguyễn Văn M đứng tên chủ sở hữu trên giấy đăng ký mô tô, xe máy. Ông M, bà Lê Thị Kim X (vợ của ông M) cùng xác định xe mô tô này là tài sản riêng của ông M. Do ông M không có lỗi để bị cáo sử dụng xe mô tô biển số 66L3-X làm phương tiện phạm tội nên giao trả xe mô tô biển số 66L3-X cho ông M theo khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Trọng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Xử phạt: Nguyễn Hữu T 01 (một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị tạm giữ, ngày 28/8/2023 (ngày hai mươi tám, tháng tám, năm hai nghìn không trăm hai mươi ba).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào các điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong (Vụ số: 173/KL-KTHS(MT-GT) ngày 01 tháng 9 năm 2023) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H1, Nguyễn Thành D. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định, khối lượng 0,2128g (không phẩy hai một hai tám gam).

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO, vỏ màu đen, được lắp 02 thẻ sim cùng mạng VIETTEL (đã qua sử dụng).

- Giao trả cho ông Nguyễn Văn M 01 (một) xe mô tô, nhàn hiệu HONDA, màu sơn đỏ - đen, biển số 66L3-X, số máy 09E-5371100, số khung 09087Y271123 (đã qua sử dụng).

(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 13/11/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Hữu T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, ông Nguyễn Văn M có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST

Số hiệu:73/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;