Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 71/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 71/2022/HS-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2022/HSST ngày 25 tháng 5 năm 2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Tấn P (tên gọi khác P N), sinh ngày 04/9/1990. tại tỉnh Tiền Giang; nơi cư trú: số 214 đường L, ấp M, xã M1, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ học vấn 09/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Phạm Tấn L, sinh năm 1961 và bà Trần Thị H, sinh năm 1964; bị cáo sống chung như vợ chồng với Cao Thị Mỹ G sinh năm 1993 đến năm 2015 thì không còn sống chung và có hai con chung sinh năm 2013 và sinh năm 2015, bị cáo sống chung như vợ chồng với Nguyễn Ngọc Kim N sinh năm 1996 có một con chung sinh năm 2022; tiền sự: Không có; tiền án: Không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 10/12/2021, tạm giam từ ngày 15/12/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Mỹ Tho. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Nguyễn Ngọc Kim N, sinh năm 1996 (vắng mặt);

Nơi cư trú: số 103 ấp H, xã M, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 09 giờ 30 phút ngày 10/12/2021, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy kết hợp Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Mỹ Tho và Công an xã M, thành phố Mỹ Tho bắt quả tang bị cáo Phạm Tấn Phát đang tàng trữ trái phép chất ma túy trong phòng ngủ tại nhà không số thuộc tổ 13, ấp Mỹ T, xã M, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

01 bịch nylon màu trắng được hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tất cả cho vào bì thư màu trắng niêm phong lại có các chữ ký ghi họ tên Phạm Tấn Phát, Nguyễn Ngọc Kim N, Cao Anh V và dấu tròn màu đỏ ghi Công an xã M, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang;

01 kéo kim loại màu trắng; 01 bình gas mini màu đen;

01 chai nhựa màu trắng nắp vàng trên nắp có gắn ống thủy tinh màu trắng có một đầu uốn cong hình tròn và một ống hút màu trắng xanh hồng;

01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh Model TA-1174 có 02 sim Mobifone (ghi dãy số 8401200233140001 và 8401201192976240);

01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh, số IMEI: 860986044693454, 860986044727468; có 02 sim Mobifone (ghi dãy số 8401191192002871 WD và 8401201192502304);

01 khung xe mô tô biển số 63B4-042.20 gắn bánh sau không có bánh trước và các bộ phận của xe mô tô 63B4-042.20 bị tháo rời.

Căn cứ Bản kết luận giám định số 248/KLGĐ-PC09 ngày 12/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: Các mẫu tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon màu trắng được hàn kín, để trong 01 bì thư màu trắng được niêm phong có các chữ ký ghi họ tên: Phạm Tấn P, Nguyễn Ngọc Kim N, Cao Anh V và dấu tròn màu đỏ có nội dung: CÔNG AN XÃ M - CÔNG AN THÀNH PHỐ MỸ THO - TỈNH TIỀN GIANG gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4049 gam loại Methamphetamine.

Ma túy còn lại sau giám định và vật chứng có liên quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Mỹ Tho đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho chờ xử lý.

Bị cáo Phạm Tấn P khai nhận: Bị cáo P bắt đầu sử dụng ma tuý trước đó 01 năm. Khoảng 19 giờ ngày 09/12/2021, bị cáo Phát gọi điện thoại cho người thanh niên tên H (không rõ họ, địa chỉ) qua số điện thoại 0943554649 đặt mua ma túy với số tiền 300.000 đồng, H đồng ý và kêu bị cáo P chạy xuống vòng xoay C gần Trung tâm y tế huyện C, tỉnh Tiền Giang. Sau đó, bị cáo P điều khiển xe mô tô biển số 63B4-042.20 chạy xuống vòng xoay Chợ Gạo gặp H để mua ma túy rồi bỏ vào trong túi áo cất giữ và điều khiển xe đi về căn nhà không số thuộc tổ 13, ấp Mỹ T, xã M, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Tại đây, bị cáo P lấy bịch ma túy ra để trên thùng loa dưới bàn để tivi trong phòng ngủ cất giữ và chuyển tiền qua dịch vụ MoMo vào tài khoản tên Nguyễn Văn L1 có số điện thoại 0964476355 để trả tiền theo yêu cầu của H lúc mua ma tuý. Đến khoảng 09 giờ ngày 10/12/2021, bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang bị cáo P cùng tang vật. Mục đích bị cáo P mua ma túy để sử dụng cho bản thân.

Đối với số điện thoại 0943554649 mà bị cáo P gọi cho H để mua ma tuý. Qua tra cứu số điện thoại do ông Nguyễn Văn N1, sinh năm 1954, ngụ số 169B đường L, phường 5, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đứng tên thuê bao. Tuy nhiên, qua làm việc ông N1 không biết số điện thoại trên, cũng không đăng ký và đứng tên số thuê bao trên giùm cho ai. Ông Ngọ không biết người tên H, tên P.

Đối với số điện thoại 0964476355 bi cáo P nạp tiền trả cho H, qua tra cứu do chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1998, ngụ thôn Đ, xã Đa T, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội đứng tên thuê bao từ năm 2020 và khoảng 02 tháng sau bị mất sim nên không còn sử dụng số điện thoại này.

Tại Cáo trạng số 46/CT-VKSMT ngày 24 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho đã truy tố bị cáo Phạm Tấn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho vẫn giữ nguyên quan điểm về tội danh và khung hình phạt như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phạm Tấn P từ 12 đến 18 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được để trong 01 bìa thư niêm phong ký hệu số vụ 248 ghi ngày 12/12/2021 có các chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh T (Giám định viên), Huỳnh Tấn L1 (trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên Nguyễn Phúc T1 (bên nhận) và hình dấu tròn đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HINH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG.

Tịch thu tiêu hủy các dụng cụ dùng để sử dụng ma túy gồm: 01 kéo kim loại màu trắng; 01 bình gas mini màu đen và 01 chai nhựa màu trắng nắp vàng trên nắp có gắn ống thủy tinh màu trắng có một đầu uốn cong hình tròn và một ống hút màu trắng xanh hồng.

Trả lại cho bị cáo Phạm Tấn P: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh Model TA-1174 (tình trạng máy cũ, trầy xước, không lên nguồn, không kiểm tra bên trong máy) có 02 sim Mobifone (ghi dãy số 8401200233140001 và 8401201192976240) và 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh (tình trạng máy cũ, trầy xước, không lên nguồn, không kiểm tra bên trong máy) có 02 sim Mobifone (ghi dãy số 8401191192002871 WD và 8401201192502304).

Lời tự bào chữa của bị cáo Phạm Tấn P: Bị cáo đã biết lỗi của mình. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra thành phố Mỹ Tho, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại hay có ý kiến gì về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng. Mặc dù, các đương sự đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Trong quá trình điều tra, người làm chứng nêu trên đã có lời khai cụ thể, đầy đủ, rõ ràng. Xét thấy sự vắng mặt của họ không gây khó khăn cho việc xét xử. Căn cứ Điều 292, Điều 293 và Điều 299 Bộ luật tố tụng hình sư, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng theo thủ tục chung.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo, lời khai của những người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác thu giữ được đã đủ cơ sở để kết luận: Lúc 09 giờ 30 phút ngày 10/12/2021, trong phòng ngủ tại nhà trọ không số thuộc tổ 13 ấp Mỹ T, xã M, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang; bị cáo Phạm Tấn P tàng trữ trái phép 0,4049 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Xét hành vi tàng trữ chất ma túy để sử dụng cho bản thân của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được việc tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng coi thường pháp luật, để phục vụ và đáp ứng nhu cầu của cá nhân nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo Phạm Tấn P đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm i, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, ………có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho đã truy tố bị cáo Phạm Tấn P ra trước tòa án để xem xét về tội danh và điều luật như đã nêu trên là có căn cứ theo quy định của pháp luật.

[4] Đối với Nguyễn Ngọc Kim N sống chung như vợ chồng với bị cáo Phạm Tấn P. Tuy nhiên, bị cáo P và chị N đều trình bày, bị cáo P chị N sử dụng hai phòng ngủ khác nhau. Hàng ngày, bị cáo P sử dụng phòng ngủ ngay sau chỗ để sửa chữa xe nên chị N không biết bị cáo P có sử dung ma túy và tàng trữ ma túy. Cơ quan điều tra không xử lý chị N với vai trò đồng phạm trong vụ án là phù hợp với quy định pháp luật.

Đối với người tên H đã bán ma túy cho bị cáo P, do bị cáo P không xác định được họ, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra chưa triệu tập ghi lời khai được, hiện tiếp tục điều tra làm rõ, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định pháp luật.

[5] Về nhân thân: Bị cáo P không có tiền án và không có tiền sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo P thật thà khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tình tiết tăng năng: Không có

[6] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 46 và Điều 47 Bộ Luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đối với bìa thư được niêm phong có ký hiệu số vụ 248 ghi ngày 12/12/2021 có các chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh T (Giám định viên), Huỳnh Tấn L1 (trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên Nguyễn Phúc T1 (bên nhận) và hình dấu tròn đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HINH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG là số mà túy còn lại sau giám định nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 kéo kim loại màu trắng; 01 bình gas mini màu đen; 01 chai nhựa màu trắng nắp vàng trên nắp có gắn ống thủy tinh màu trắng có một đầu uốn cong hình tròn và một ống hút màu trắng xanh hồng là những dụng cụ dùng để sử dụng ma túy định nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh Model TA-1174 (tình trạng máy cũ, trầy xước, không lên nguồn, không kiểm tra bên trong máy) có 02 sim Mobifone (ghi dãy số 8401200233140001 và 8401201192976240) và 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh (tình trạng máy cũ, trầy xước, không lên nguồn, không kiểm tra bên trong máy) có 02 sim Mobifone (ghi dãy số 8401191192002871 WD và 8401201192502304) là tài sản của bị cáo P nên cần trả lại cho bị cáo P.

Đối với khung xe mô tô biển số 63B4-042.20 gắn bánh sau, không có bánh trước và các bộ phận của xe bị tháo rời ra, qua điều tra xác định xe do chị Huỳnh Ngọc S, sinh năm 1993, ngụ ấp An Q, xã A, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang đứng tên sở hữu bán cho chị Nguyễn Ngọc Kim N, sinh năm 1996, ngụ số 103 ấp H, xã M, thành phố Mỹ Tho với giá 7.000.000 đồng có làm giấy bán xe (N hiện đang sống như vợ chồng cùng nhà trọ với P). Việc bị cáo P sử dụng điều khiển đi mua ma tuý, chị N không biết nên cơ quan điều tra trả lại cho chị N là phù hợp với quy định pháp luật.

[7] Lời đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên.

[8] Về án phí: Bị cáo Phạm Tấn P phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Tấn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Tấn P 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ tạm giữ là ngày 15 tháng 12 năm 2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ Luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: bìa thư được niêm phong có ký hiệu số vụ 248 ghi ngày 12/12/2021 có các chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh T (Giám định viên), Huỳnh Tấn L (trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên Nguyễn Phúc T1 (bên nhận) và hình dấu tròn đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HINH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG; 01 kéo kim loại màu trắng; 01 bình gas mini màu đen; 01 chai nhựa màu trắng nắp vàng trên nắp có gắn ống thủy tinh màu trắng có một đầu uốn cong hình tròn và một ống hút màu trắng xanh hồng Trả lại cho bị cáo Phạm Tấn P: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh Model TA-1174 (tình trạng máy cũ, trầy xước, không lên nguồn, không kiểm tra bên trong máy) có 02 sim Mobifone (ghi dãy số 8401200233140001 và 8401201192976240) và 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh (tình trạng máy cũ, trầy xước, không lên nguồn, không kiểm tra bên trong máy) có 02 sim Mobifone (ghi dãy số 8401191192002871 WD và 8401201192502304).

Hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đang giữ toàn bộ các vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/7/2022.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Tấn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 71/2022/HS-ST

Số hiệu:71/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;