Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 71/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 71/2022/HS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. B mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 68/2022/HSST ngày 27 tháng 01 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐXXST-HS ngày 10/02/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn P; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1982 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký thường trú: phường T, thành phố B, tỉnh Đ;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 01/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Bùi Văn B, sinh năm 1953 (Còn sống) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1951 (còn sống). Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ ba. Họ và tên vợ: Trần Thị N (đã ly hôn năm 2013). Bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2008.

Tiền án: Ngày 16/6/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/5/2020.

Tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang tạm giữ từ ngày 15/12/2021, chuyển tạm giam theo Lệnh số 26/LTG ngày 23/12/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn P là người sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 09 giờ ngày 14/12/2021, P đi đến khu vực Ngã ba Sáu Đúng, xã An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai mua của người đàn ông (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Sau đó, P mang về nhà của chị Đặng Tú N (bạn gái của P) tại nhà không số, tổ 17, khu phố Long Khánh 1, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Lúc này chị N không có mặt tại phòng, P lấy ra sử dụng một phần, phần còn lại cất vào gói thuốc lá hiệu “Bastos” bỏ trên bàn bên cạnh giường ngủ.

Đến khoảng 10 giờ 20 phút ngày 15/12/2021, khi P đang cất giấu gói ma tuý ở vị trí nêu trên thì Công an phường Tam Phước kiểm tra phát hiện bắt quả tang P cùng tang vật.

Quá trình điều tra, Bùi Văn P khai nhận hành vi phạm tội như trên.

* Vật chứng:

- 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong có chữ ký ghi rõ họ tên Bùi Văn P và hình dấu tròn đỏ Công an phường Tam Phước.

* Tại kết luận giám định số 2445/KLGĐ-PC09 ngày 20/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1402 gam, loại: Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 87/CT/VKSBH ngày 26/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B đã truy tố bị cáo Bùi Văn P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Bùi Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức án từ 02 (hai) năm tù đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng sự thật, đúng người, đúng tội, bị cáo không có ý kiến gì đối với Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bút lục số 01-02); Kết luận giám định (Bút lục số 26); Lời khai bị can (Bút lục số 36-48); Lời khai của người chứng kiến (Bút lục số 49-55). Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định: Vào ngày 15/12/2021, tại nhà không số, tổ 17, khu phố Long Khánh 1, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Bùi Văn P có hành vi tàng trữ trái phép 0,1402 gam Methamphetamine thì bị Công an phường Tam Phước phát hiện bắt quả tang. Hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận bị cáo Bùi Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất an ninh, trật tự tại địa P, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách Nệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự: Ngày 16/6/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/5/2020, chưa được xóa án tích. Bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử bị cáo mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

[6] Đối với người đàn ông chưa rõ lai lịch đã bán ma túy cho P: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[7] Đối với Đặng Tú N: Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay đã xác định, Đặng Tú N không biết P tàng trữ trái phép chất ma tuý nên không xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn P 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định tại gói niêm phong số 2445/KLGĐ-PC09 ngày 20/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố B.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Bùi Văn P phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Bùi Văn P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 71/2022/HS-ST

Số hiệu:71/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;