Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 62/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 62/2021/HS-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:

53/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Trung H, sinh ngày 20/7/1983 tại xã A, huyện V, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn T, xã A, huyện V, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn N, sinh năm 1960 và bà: Vũ Thị S, sinh năm 1960; Có vợ là: Lê Thị Thúy O, sinh năm 1987 và 02 con, lơn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; tiền sư: Không; tiền án: Bản án số 34/HSST/2018 ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/12/2019; bị tạm giữ từ ngày 08/4/2021 đến ngày 11/4/2021 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Q, tỉnh Thái Bình (có mặt).

Người chứng kiến:

- Ông Phạm Ngọc Tu, sinh năm 1973 - Ông Nguyễn Đức G, sinh năm 1967 Cùng cư tru: Thôn V, xã An , huyện Q, tỉnh Thái Bình (Đêu vắng măt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 14 giờ 15 phút ngày 08/4/2021, tổ công tác Công an huyện Q, tỉnh Thái Bình làm nhiệm vụ tại đường thôn V, xã An, huyện Q, phát hiện Phạm Trung H đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu về trụ sở Ủy ban nhân dân xã An, huyện Q làm việc. Tại đây, tô công tac tiên hanh kiểm tra phát hiện tại túi quần trước bên phải H mặc 01 gói nghi là ma túy có đặc điểm: Ngoài là giấy trắng dòng kẻ, trong có chất bột màu trắng dạng cục; H khai đây là gói ma túy vừa mua với số tiền 100.000 đồng để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo không phát hiện, thu giư gì.

Kết luận giám định số 113/KLGĐMT-PC09 ngày 09/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:“Vật chứng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2494 gam (không phẩy hai nghìn bốn trăm chín mươi bốn gam).

Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính Phủ” Tại phiên tòa bị cáo khai: Do nghiện ma túy nên chiêu ngay 08/4/2021, bị cáo đi bộ từ nhà ra đường Quốc lộ 10 bắt xe khách đến xã An, huyện Q tìm mua ma túy để sử dụng. Tới ngã tư thôn V, xã An, bị cáo xuống xe đi bộ vào một ngõ nhỏ gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ 01 gói ma túy giá 100.000 đồng. Bị cáo giấu gói ma túy trong túi quần trước bên phải rồi đi bộ về phía thôn V, xã An, huyện Q tìm chỗ vắng sử dụng thì bị băt qua tang.

Lời khai của người chứng kiến là ông Phạm Ngọc Tu và ông Nguyễn Đức G có trong hồ sơ vụ án có nội dung: Chiêu ngày 08/4/2021, hai ông được mời đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã An, huyện Q chứng kiến việc tổ công tác của Công an huyện Q kiểm tra người và quản lý của Phạm Trung H 01 gói nghi là ma túy. Tô Công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.

Bản cáo trạng số 62/CT-VKSQP ngày 02/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Thái Bình truy tố Phạm Trung H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phạm Trung H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/4/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu hủy vật chứng là Heroine thu được của bị cáo trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không co y kiên tranh luân gi.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo đã đủ tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thưc hiên là phạm tội vơi lôi cố ý trưc t iêp. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đung như nôi dung cao trang đa mô ta vaphù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lơi khai cua ngươi chưng kiên . Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu , chưng cư sau : Biên ban băt ngươi pham tôi qua tang ; biên bản quản lý đồ vật, tài liệu; biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q lập ngày 08/4/2021; biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định giưa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q vơi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng ngày 08/4/2021; Kết luận giám định số 113/KLGĐMT-PC09 ngày 09/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ ngày 08/4/2021, tại đường Thôn V, xã An , huyện Q, tỉnh Thái Bình, Phạm Trung H đa có hành vi cât giâu trái phép trên người 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2494 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

mua Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” … Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội , xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương . Mặc dù bị cáo không dùng công cụ, thủ đoạn nguy hiểm khi phạm tội, đông cơ pham tôi xuât phat tư viêc nghiên chât ma tuy , mục đích để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, nhưng tệ nạn ma túy đang là mối quan tâm nhức nhối của toàn xã hội, ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, làm suy thoái giống nòi, là nguyên nhân phát sinh nhiêu loại tội phạm khác. Bị cáo có tiên an vê cung tôitàng trữ trái phép chất ma túy vơi mưc an 18 tháng tù, đa đươc cải tạo, giáo dục nhưng không chịu sửa đổ, ilại tiếp tục phạm tộ.i Hành vi của bị cáo thê hiên y thưc coi thương phap lu,âvt ì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo đã gây r.a [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cao đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trì nh điêu tra , truy tô va tai phiên toa bi cao khai bao trung thưc toan bô hanh vi pham tôi , do đo bi cao đươc hương tinh tiêt giam nhe trach nhiêm hinh sư “ Ngươi pham tôi thanh khân khai bao ” quy đinh tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đa phân tich trên thây cân thiêt áp dụng hình phạt tù có thời hạn , cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội môt thơi gian nhât đinh để răn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung, như mưc an đai diên Viên kiêm sat đê nghi là tương xưng vơi hanh vi cua bi cao.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, như vậy bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tương nghiên ma túy, không co nghê nghiêp va thu nhâp ôn đinh , vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo, do đó cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 01 gói ma túy, kết quả giám định kết luận là ma túy loại loại heroine và hoàn trả mẫu vật sau giám định. Xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, do đó cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điêm h khoản 1 Điêu 52, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo Phạm Trung H 01 (Môt) năm 09 (Chín.) tháng tù , thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 4 năm 2021.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,2007 gam (Không phẩy hai nghìn không trăm linh bay gam) mâu vât gưi giam đinh và toàn bộ bao gói quản lý của bị cáo Phạm Trung H trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 113/KLGĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

Vật chứng trên đang được chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện và chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Thái Bình ngày 02/7/2021.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Trung H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 62/2021/HS-ST

Số hiệu:62/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;