Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 59/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 59/2022/HS-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 67/2022/TLST- HS ngày 29 tháng 4 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

MÙA A T. Tên gọi khác: không. Sinh ngày 10/5/1960 tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Bản A, xã B, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 01/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mùa A T1 (đã chết) và bà Giàng Thị T2 (đã chết); Bị cáo có vợ là Giàng Thị L . Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Năm 2016 Mùa A T đã bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 24 tháng theo Quyết định số 39/2016/QĐ-TA ngày 23/6/2016.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người phiên dịch: Anh Giàng A C, sinh năm 2000. Địa chỉ: Tiểu khu A1, thị trấn B1, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 01/2022, T đang ở nhà thì có 01 người đàn ông dân tộc Mông đến chơi, khi nói chuyện T biết người đó có ma túy bán nên đã mua 1.000.000VNĐ được 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa các viên Hồng phiến và các cục bột Heroine màu trắng, mục đích để sử dụng. T cất số ma túy mua được vào trong 02 hộp nhựa, gồm 01 hộp hình trụ tròn, đường kính 01cm, cao 04cm có thân màu cam, nắp màu trắng và 01 hộp hình trụ tròn đường kính 02cm, cao 03cm màu hồng, số Hồng phiến T gói lại trong túi nilon màu xanh ban đầu rồi cất giấu trong người. Từ ngày mua được ma túy đến ngày 16/01/2022, T lấy số Heroine và Hồng phiến ra để sử dụng bằng hình thức hít, số còn lại T cất giấu trong túi áo ngực phía trước bên trái. Khoảng 18 giờ 55 phút ngày 16/01/2022, T đi chơi, khi đang đi bộ trên đường dân sinh theo hướng xã Nà Ớt đi xã Phiêng Cằm, huyện Mai Sơn để về nhà thì bị tổ công tác Công an xã Nà Ớt phối hợp với công an xã Phiêng Cằm phát hiện. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Ngày 17/01/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, trích rút m u giám định đối với vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Mùa A T. ết quả: Khối lượng 21 viên nén màu hồng là 2,16gam, lấy 03 viên có khối lượng 0,3gam làm m u giám định, ký hiệu M1; Khối lượng chất bột màu trắng bên trong hộp nhựa hình trụ tròn có nắp đậy màu trắng, thân màu cam có khối lượng 1,08gam, trích rút 0,09gam làm m u giám định, ký hiệu M2; Khối lượng chất bột màu trắng bên trong hộp nhựa hình trụ tròn màu hồng có khối lượng 0,96gam, trích rút 0,1gam làm mẫu giám định, ký hiệu M3.

Tại bản kết luận giám định số 300 ngày 18/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 là ma tuý; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,3gam.

Mẫu gửi giám định ký hiệu M2, M3 đều là ma tuý; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là M2= 0,09 gam, M3 = 0,1gam Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,16 gam; Loại Methamphetamine và 2,82gam loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKSMS ngày 28/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Mùa A T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Mùa A T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, xử phạt bị cáo Mùa A T từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: số ma túy còn lại sau giám định gồm T1 = 1,86gam Methamphetamine, T2 = 0,99gam Heroine, T3 = 0,86gam Heroine, vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh nilon gói ma túy ban đầu, 02 hộp nhựa chứa ma túy ban đầu được niêm phong theo quy định.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Mùa A T tự bào chữa: Nhất trí với nội dung bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Mai Sơn, iểm sát viên, thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Mùa A T khai nhận do bản thân nghiện chất ma túy, khoảng đầu tháng 01/2022, bị cáo đã mua Hồng phiến và Heroine với giá 1.000.000VNĐ nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân, từ khi mua ma túy đến ngày 16/01/2022 bị cáo đã sử dụng một phần ma túy mua được bằng hình thức hít, ngày 16/01/2022 khi đang đi bộ trên đường T đã bị tổ công tác Công an xã Nà Ớt phối hợp với Công an xã Phiêng Cằm, huyện Mai Sơn kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ số ma túy cất giấu, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm quả tang lập hồi 19 giờ 00 phút ngày 16/01/2022 của tổ công tác Công an xã Nà Ớt và xã Phiêng Cằm, huyện Mai Sơn; kết luận giám định số 300 ngày 18/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La, kết luận tổng khối lượng ma túy thu giữ của T là 2,16 gam loại Methamphetamine và 2,82gam loại Heroine, tại phiên tòa bị cáo thừa nhận tổng số Heroine và Methamphetamine thu giữ trong vụ án được cân tịnh dưới sự có mặt của bị cáo, với các chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Mùa A T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm b đến điểm h khoản này."

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, bị cáo nhận thức rõ được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đều là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo v n cố tình mua trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời, hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm gia tăng tình trạng mua bán, sử dụng trái phép các chất ma túy, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về việc đã làm, bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã cao tuổi nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phần nào đối với bị cáo.

Tuy nhiên, xét về nhân thân: Năm 2016 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 24 tháng theo Quyết định số 39/2016/QĐ-TA ngày 23/6/2016. Sau khi trở về nơi cư trú bị cáo v n chưa từ bỏ được ma túy nên cần xem xét mức hình phạt phù hợp để bị cáo có thể cải tạo bản thân.

[5] Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra xác minh bị cáo không có tài sản gì đáng giá, cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy còn lại sau giám định gồm T1 = 1,86gam Methamphetamine, T2 = 0,99gam Heroine, T3 = 0,86gam Heroine, vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh nilon gói ma túy ban đầu, 02 hộp nhựa chứa ma túy ban đầu được niêm phong theo quy định: Xét thấy đây là chất Nhà nước cấm lưu hành, những vật dùng vào việc phạm tội và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về vấn đề khác:

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết khi người đó đến nhà bị cáo, việc mua bán ma túy không có ai biết, chứng kiến. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn không có căn cứ để điều tra, xác minh mở rộng vụ án, cần chấp nhận.

[8] Về án phí:

Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Mùa A T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Mùa A T 04 (bốn) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 17/01/2022).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: số ma túy còn lại sau giám định gồm T1 = 1,86gam Methamphetamine, T2 = 0,99gam Heroine, T3 = 0,86gam Heroine, vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh nilon gói ma túy ban đầu, 02 hộp nhựa chứa ma túy ban đầu được niêm phong theo quy định.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 13/5/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 59/2022/HS-ST

Số hiệu:59/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;