Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 59/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI 

BẢN ÁN 59/2021/HS-ST NGÀY 06/5/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N tỉnh Đồng Nai xét xử, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S, sinh năm 1995, tại Campuchia.

HKTT: ấp 2, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: ấp 2, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không Trình độ học vấn: không biết chữ. Nghề nghiệp: Không.

Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1971 và bà Lý Thị L, sinh năm: 1972. Bị cáo có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ 05 trong gia đình.

Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12 tháng 12 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N.

Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Cẩm G, sinh năm 2000; Địa chỉ: ấp Ph, xã Ph, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

(Bị cáo có mặt; Người làm chứng chị G vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 12 tháng 12 năm 2020, Nguyễn Văn S đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4650 gam và 01gói lá cây loại Cần sa, có khối lượng 1,1948 gam nhằm mục đích để sử dụng tại ấp 2, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an xã Ph, huyện N phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng và 01 hộp nhựa bên trong đựng lá cây khô; 01 bình nhựa có gắn ống hút và ống thủy tinh và 01 hộp quẹt ga.

Tại Bản kết luận giám định số 2842/KLGĐ-PC09 ngày 16 tháng 12 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

Mẫu tinh thể màu trắng (Ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,4650 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu lá thảo mộc khô (Ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,1948 gam, loại Cần sa.

Ngày 17 tháng 12 năm 2020, Cơ quan điều tra Công an huyện N đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn S để điều tra.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn S khai nhận:

Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 10 tháng 12 năm 2020, Nguyễn Văn S mượn xe mô tô hiệu Wave, biển kiểm soát: 60L5-3868 của anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1984; địa chỉ: ấp S, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai điều khiển chạy từ nhà thuộc ấp 2, xã Ph, huyện N đến khu vực N, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh để đi công việc. Sau đó, S vào 01 quán game ở ngã ba B thuộc khu vực giáp ranh giữa khu vực Quận 7 và huyện N, thành phố Hồ Chí Minh. Khi vào quán game, S gặp một người bạn tên V (không rõ nhân thân) S hỏi mua 200.000 đồng ma túy để sử dụng, V đồng ý. Khoảng 30 phút sau V quay lại và đưa cho S 01 gói nilon bên trong chứa ma túy, S đưa cho V số tiền 200.000 đồng. Ngoài ra, V còn cho S thêm 01 hộp nhựa bên trong đựng lá cây cần sa để sử dụng. Nhận được ma túy xong, S cầm số ma túy trên về nhà cất giấu trong sọt rác để trong nhà vệ sinh nhằm mục đích để sử dụng. Đến 09 giờ 30 phút ngày 12 tháng 12 năm 2020, S đang bán trái cây ở chợ Đ thuộc xã Đ, huyện N thì có chị Nguyễn Thị Cẩm G, sinh năm 2000, trú tại: ấp Ph, xã Ph, huyện T, tỉnh Vĩnh Long là người bán trái cây cùng nhờ S chở về nhà để tắm. Khi S chở G về nhà mình được khoảng 10 phút thì bị Công an xã Ph đến kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang cùng với tang vật Tại cáo trạng số 44/CT-VKS-TB ngày 05 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố Nguyễn Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung truy tố tại bản cáo trạng và đánh giá phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị căn cứ Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo S từ 01 năm 06 tháng tù đến 01 năm 08 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 2842/KLGĐ-PC09 có các chữ ký ghi rõ họ tên: Phạm Thị Hương M, Lê Phạm D và hình dấu tròn màu đỏ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bình nhựa có gắn ống hút và ống thủy tinh; 01 hộp quẹt ga.

- Bị cáo Nguyễn Văn S không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu, bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố; Hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Người làm chứng được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai trong quá trình điều tra, không ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu được, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra trước tòa, cho thấy bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 12 tháng 12 năm 2020, tại nhà bà Lý Thị L thuộc ấp 2, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai Nguyễn Văn S đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,4650 gam Methamphetamine và 1,1948 gam Cần sa. Do tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn S là dưới 100% nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của chính phủ quy định về việc tính khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi của bị cáo Nguyễn Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy sẽ gây hiểm họa mắc nhiều căn bệnh nguy hiểm, là mầm mống của nhiều loại tội phạm khác nhưng vì xem thường pháp luật bị cáo vẫn cất giấu để sử dụng. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

[4] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo S thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nhân thân tốt, trình độ học vấn thấp, nhận thức về pháp luật còn hạn chế là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét trách nhiệm hình cho bị cáo và cũng để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[5] Đối với chị Nguyễn Thị Cẩm G, do chị G không biết bị cáo S tàng trữ ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N không xử lý là phù hợp quy định pháp luật.

[6] Đối với đối tượng tên V là người bán ma túy cho S, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng:

Căn cứ các Điều 46, Điều 47 và Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 2842/KLGĐ-PC09 có các chữ ký ghi rõ họ tên: Phạm Thị Hương M, Lê Phạm D và hình dấu tròn màu đỏ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bình nhựa có gắn ống hút và ống thủy tinh; 01 hộp quẹt ga.

Đối với xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát: 60L5-3868 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn H, do anh H không biết S mượn xe mô tô trên để thực hiện hành vi phạm tội và đang bị tạm giữ trong vụ án khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không thu giữ xử lý là phù hợp quy định pháp luật.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[9] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 12 năm 2020.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 2842/KLGĐ-PC09 có các chữ ký ghi rõ họ tên: Phạm Thị Hương M, Lê Phạm D và hình dấu tròn màu đỏ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bình nhựa có gắn ống hút và ống thủy tinh; 01 hộp quẹt ga.

Vật chứng nêu trên đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 4 năm 2021.

4. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 59/2021/HS-ST

Số hiệu:59/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;