Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 57/2021/HS-ST NGÀY 29/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 66/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Văn D, sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn L, xã V, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn P và bà Bùi Thị H; có vợ là Trịnh Thị Mỹ L và 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: - Bản án số 27/2008/HSST ngày 26/8/2008, TAND huyện Tứ Kỳ xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản).

- Bản án số 47/2012/HSST ngày 09/11/2012, TAND huyện Tứ Kỳ xử phạt 10 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (giá trị tài sản trộm cắp 8.000.000 đồng) nộp án phí ngày 11/01/2013 - Ngày 22/8/2013, Công an TP Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây thương tích, đã nộp phạt số tiền 750.000 đồng.

- Bản án số 27/2013/HSST ngày 27/9/2013, TAND huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá xử phạt 12 tháng tù về tội Trốn khỏi nơi giam. Tổng hợp hình phạt với bản án số 47/2012/HSST ngày 09/11/2012, buộc Đỗ Văn D phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 18 tháng 04 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2013, chấp hành xong hình phạt tù 04/01/2015, nộp án phí ngày 03/01/2014.

- Ngày 09/9/2015, bị Công an huyện Tứ Kỳ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc, nộp tiền phạt ngày 25/9/2015 - Bản án số 24/2016/HSST ngày 08/6/2016 của TAND huyện Tứ Kỳ xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, nộp án phí ngày 08/8/2016 Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/7/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Hoàng Đình T, sinh năm 1985; địa chỉ: thôn T, xã Q, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

(Người làm chứng vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 05 phút ngày 26/7/2021, Đỗ Văn D đi đến ngã tư phố Q thuộc xã N, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương thì bị lực lượng Công an huyện Tứ Kỳ kiểm tra, bắt quả tang D đang cất giấu 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng ở túi quần bên phải đang mặc, 01 xe mô tô Honda Wave màu vàng biển số 99Y-60... D khai là ma tuý đá cất giấu với mục đích sử dụng.

Quá trình điều tra xác định: Bị cáo là người sử dụng ma tuý tổng hợp, khoảng 11 giờ 40 phút, ngày 26/7/2021, D điều kiển xe máy sang huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng chơi. Trên đường về đến chân cầu Q, D thấy cách lề đường bên phải khoảng 40cm có 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng. D biết đó là ma tuý nên nhặt cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy đi về đến ngã tư phố Q thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 413/KLGĐ-PC09 ngày 26/7/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) mầu trắng niêm phong trong phong bì, ghi thu của Đỗ Văn D gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,384 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số 62/CT-VKSTK, ngày 14/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo Đỗ Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa: VKSND huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX ) áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo Đỗ Văn D từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), tịch thu tiêu hủy 0,349 gam Methamphetamine được hoàn lại sau giám định, trả lại Đỗ Văn D 01 xe máy không liên quan đến việc phạm tội; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đỗ Văn D đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ đã truy tố, bị cáo hối hận về hành vi của mình, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Vào hồi 12 giờ 05 phút, ngày 26/7/2021, tại ngã tư phố Q, xã N, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, Đỗ Văn D có hành vi tàng trữ trái phép 0,384 gam ma túy, là loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra, Công an huyện Tứ Kỳ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ cùng vật chứng.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song với mục đích để sử dụng, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Số ma túy là loại Methamphetamine mà bị cáo tàng trữ có khối lượng là 0,384 gam nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, như quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ đối với bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Mặc dù nhận thức được ma tuý không chỉ gây tác hại rất lớn về sức khỏe cho chính người sử dụng mà còn làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của các thế hệ sau này, là gánh nặng cho gia đình, xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, nhưng vì mục đích sử dụng cho bản thân để thoả mãn cơn nghiện và ý thức coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, điều kiện nhân thân của bị cáo, thấy rằng: Mặc dù bị cáo đã từng 4 lần bị kết án vào các năm 2008, 2012, 2013, 2016 và đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính vào các năm 2013 và năm 2015 nhưng đều đã chấp hành xong các bản án và quyết định, được xác định chưa có tiền án, tiền sự, nhưng chứng tỏ bị cáo là người có nhân thân xấu. Mặc dù quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Hội đồng xét xử sẽ xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, song dù có giảm nhẹ vẫn cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để chấp hành hình phạt tù mới đủ tác dụng giáo dục riêng bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với trọng lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ trái phép, sau khi giám định được hoàn lại 0,349 gam Methamphetamine đựng trong phong bì thư là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu Honda Wave màu sơn vàng, biển số 99Y1-60... mà D sử dụng làm phương tiện đi lại, không sử dụng vào việc phạm tội, không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng nên cần trả lại cho Đỗ Văn D là phù hợp.

[8] Về án phí : Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thâm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của BLHS;

1. Tuyên bố: bị cáo Đỗ Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn D 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 26/7/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,349 gam Methamphetamine được hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư. Trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn vàng, biển số 99Y1- 60... cho bị cáo Đỗ Văn D.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ ngày 19/10/2021).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về ... án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Đỗ Văn D phải chịu 200.000 đồngán phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2021/HS-ST

Số hiệu:57/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;