Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 51/2021/HS-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2021/TLST- HS ngày 23 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Lò Văn L, sinh ngày 11 tháng 11 năm 1993 tại Điện Biên. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản M, xã X, huyện M, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò P và bà Lò H; có vợ là Lò M và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/5/2021, bị tạm giam từ ngày 26/5/2021 đến nay. Có mặt.

2. Lò Văn C, sinh ngày 15 tháng 02 năm 1995 tại Điện Biên. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản M, xã X, huyện M, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò V và bà Lò L; có vợ là Lò T và 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/5/2021, bị tạm giam từ ngày 26/5/2021 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn L: Ông Bế H - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn C: Ông Chu V - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lò Văn L, Lò Văn C đều là người sử dụng trái phép chất ma túy và đang làm thuê tại công trình trên địa bàn thị trấn Hữu Lũng. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 20/5/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Lò Văn L rủ Lò Văn C đi mua ma túy, Cường đồng ý cả hai gặp anh Nguyễn D cho ứng trước tiền công lao động mỗi người 200.000 đồng. Sau đó, Lò Văn L và Lò Văn C về phòng trọ tại khu Tân Hòa, thị trấn Hữu Lũng, lấy xe mô tô nhãn hiệu SYM màu đen biển kiểm soát 98K5-1839 của anh D cho mượn từ trước. Lò Văn L điều khiển xe mô tô chở Lò Văn C đi từ thị trấn Hữu Lũng đến thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang để mua ma túy.

Khi đến khu vực gần đường tàu thuộc thị trấn Kép, Lò Văn L đỗ xe, Lò Văn C xuống xe đứng chờ, L một mình đi qua đường tàu vào một ngôi nhà cấp bốn có cửa sổ đang hé mở. Lò Văn L đi đến sát cửa sổ, đưa 380.000 đồng cho người đàn ông bên trong và nói qua khe cửa hỏi mua ma túy Heroine. Vì không bán số lẻ nên người đàn ông trả lại 80.000 đồng và đưa qua khe cửa 03 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu, bên trong đựng ma túy Heroine. Lò Văn L cầm tiền và 03 đoạn ống hút nhựa đựng ma túy đi ra vị trí đỗ xe đưa cho Lò Văn C 02 đoạn ống hút nhựa và giấu 01 đoạn ống hút nhựa vào nếp gấp ống tay áo bên trái. Lò Văn C sau khi nhận ma túy từ Lò Văn L thì giấu vào trong quần lót, rồi cả hai đi về, khi đi đến chốt kiểm dịch Covid-19 trên Quốc lộ 1A thuộc thôn Bến Lường, xã Minh Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 182/KL-PC09 ngày 21/5/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận tang vật thu giữ đều là ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,199 gam (đã trừ bì) Cáo trạng số 56 /CT-VKS ngày 20 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng đã truy tố bị cáo Lò Văn L, Lò Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn L, Lò Văn C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn L, Lò Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều, 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, xử phạt bị cáo Lò Văn C từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật sau giám định.

Ý kiến tranh luận của người bào chữa cho bị cáo Lò Văn L: Nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét đến nhân thân của bị cáo là người dân tộc cư trú ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, để xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị.

Ý kiến tranh luận của người bào chữa cho bị cáo Lò Văn C: Nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét đến tình tiết bị cáo là người dân tộc cư trú ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, để áp dụng cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, và xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.

Ý kiến đối đáp của Kiểm sát viên không đồng ý áp dụng tình tiết giảm nhẹ, bị cáo là người dân tộc cư trú ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, quy định tại 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ này, do Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét có cho bị cáo được hưởng hay không.

Các bị cáo nhất trí với ý kiến tranh luận của người bào chữa. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 12 giờ 15 phút ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại chốt kiểm dịch Covid-19 trên Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Bến Lường, xã Minh Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, các bị cáo Lò Văn L, Lò Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,199 gam chất ma túy Heroine. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Lò Văn L, Lò Văn C tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Xét vai trò của các bị cáo, đây là vụ án có đồng phạm nhưng được tổ chức dưới hình thức đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo Lò Văn L là người chủ động rủ bị cáo Lò Văn C đi mua ma túy nên là người khởi xướng có vai trò chính lớn hơn bị cáo Lò Văn C.

[4] Về nhân thân: Các bị cáo đều là người sử dụng chất ma túy, lần phạm tội này là lần đầu. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và lời bào chữa của Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý tranh luận về tội danh, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, về tình tiết giảm nhẹ và nhân thân đối của các bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, để áp dụng mức hình phạt phù hợp đối với từng bị cáo và đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Tại biên bản xác minh thể hiện các bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 02 phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật hoàn trả sau giám định, là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Đối với người đàn ông bán ma túy cho các bị cáo, đề nghị Cơ quan điều tra Công an huyện Hữu Lũng tiếp tục xác minh làm rõ, để điều tra xử lý theo quy định của pháp luật.

[9] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lò Văn L, Lò Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Lò Văn L 01 (một) năm 9 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/5/2021.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/5/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì thư dán kín trong đựng mẫu vật hoàn trả sau giám định.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, chi tiết các vật chứng được mô tả theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25 tháng 8 năm 2021)

4. Về án phí: Các bị cáo Lò Văn L, Lò Văn C mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2021/HS-ST

Số hiệu:51/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;