Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 47/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN – TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 47/2022/HS-ST NGÀY 01/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01/7/2022, tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2022/HSST ngày 31/5/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/QĐXXST- HS, ngày 20/6/2022, đối với bị cáo:

Đinh T.V, sinh ngày 10/10/1966, tại Bắc Kạn;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ X, phường P, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn; chỗ ở hiện nay: Tổ Y, phường Đ, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không ; quốc tịch: Việt nam; con ông Đinh Viết T và bà Trần Thị D; có vợ là Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1970 (đã ly hôn) và 02 con (lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 2001); tiền sự: Không; tiền án: 02 tiền án: Bản án số 22/2003/HSST, ngày 11/4/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bản án số 56/HSST, ngày 22/8/2014 của Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn (nay là thành phố Bắc Kạn), tỉnh Bắc Kạn xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; nhân thân: Năm 1995, bị Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn (nay là thành phố Bắc Kạn) xử phạt 06 tháng tù về tội “Tổ chức dùng chất ma túy”, năm 2012, bị Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn (nay là thành phố Bắc Kạn) ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 12 tháng; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2021 đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đinh Ngọc N, sinh năm 1986; Trú tại: Tổ Y, phường Đ, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 40 phút, ngày 30/12/2021, tại khu vực tổ X, phường N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang đối với Đinh T.V về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tổ công tác thu giữ trong túi áo khoác bên trái Đinh T.V đang mặc trên người có 01 gói được gói bằng vỏ bao xi lanh bên trong có chứa hỗn hợp chất bột màu hồng và màu trắng, qua cân xác định khối lượng là 0,83g (không phẩy tám ba gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì H2 gửi giám định và 01 gói được gói bằng giấy có dòng kẻ bên trong có chứa chất màu trắng dạng cục và bột, qua cân xác định khối lượng là 0,30g (không phẩy ba không gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì H1 gửi giám định. Ngoài ra, còn tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu nâu đen, bên trong có lắp 02 sim số thuê bao 0357.701.8xx và 0837.093.8xx; 01 ví giả da màu nâu bên trong ví có 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ uống thuốc Methadone, 01 thẻ ATM tất cả đều mang tên Đinh T.V; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 97B1- 461.xx cùng chìa khóa xe và 01 đăng ký xe mô tô, xe máy.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Kạn thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đinh T.V tại tổ Y, phường Đ, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Kết quả khám xét thu giữ, tạm giữ những vật chứng sau:

- Phát hiện và thu giữ tại túi quần treo trên móc áo trong phòng ngủ của Đinh T.V có 01 túi nilon màu xanh bên trong có 53 viên nén hình tròn màu hồng, qua cân xác định khối lượng 4,98g (bốn phẩy chín tám gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì H3 gửi giám định và 01 viên nén hình tròn màu xanh, qua cân xác định khối lượng 0,09g (không phẩy không chín gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì H4 gửi giám định.

- Phát hiện và thu giữ trong hộp đựng đồ đặt trên giường kê trong phòng ngủ của Đinh T.V có 01 đoạn ống nhựa màu vàng (loại ống hút nước) bên trong có 08 viên nén hình tròn màu hồng, qua cân xác định khối lượng là 0,72g (không phẩy bảy hai gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì H5 gửi giám định.

- Phát hiện và thu giữ tại ngăn trên bên phải chiếc tủ quần áo kê trong phòng ngủ của Đinh T.V có 01 ống nhựa màu tím (loại ống hút nước) bên trong có 33 viên nén hình tròn màu hồng, qua cân xác định khối lượng là 3,01g (ba phẩy không một gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì H6 gửi giám định và 01 ống nhựa màu cam (loại ống hút nước) bên trong có 30 viên nén hình tròn màu hồng, qua cân xác định khối lượng là 2,69g (hai phẩy sáu chín gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì H7 gửi giám định.

- Phát hiện và thu giữ tại túi áo trong của chiếc áo dạ màu nâu treo trong tủ quần áo kê trong phòng ngủ của Đinh T.V có 01 gói được gói bằng nilon màu hồng bên trong có chất màu trắng dạng cục và bột, qua cân xác định khối lượng là 3,46g (ba phẩy bốn sáu gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì H9 gửi giám định và 01 túi nilon trong suốt bên trong có chất màu trắng dạng cục và bột, qua cân xác định khối lượng là 14,28g (mười bốn phẩy hai tám gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì H8 gửi giám định.

- Phát hiện dưới chiếc đệm đặt trên giường ngủ kê trong phòng ngủ của Đinh T.V có số tiền 30.950.000đ (Ba mươi triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng).

- Phát hiện tại ngăn trên bên trái chiếc tủ quần áo của Đinh T.V 01 cân điện tử màu đen đã qua sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, Đinh T.V khai nhận: Vào khoảng 16 giờ ngày 27/12/2021, V đang ở nhà thuộc tổ Y, phường Đ, thành phố Bắc Kạn thì có một người đàn ông tên T là người quen trước đây (không rõ họ, tên đệm, địa chỉ nhà cụ thể) gọi điện thoại đến số thuê bao 0357.701.8xx của V để hỏi thăm sức khỏe. Qua nói chuyện, người đàn ông tên T có hỏi V còn sử dụng ma túy không, nếu có T sẽ bán lại cho V một ít. V đồng ý mua ma túy loại Heroine và hồng phiến (Methamphetamine) với người đàn ông tên T với tổng số tiền 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng). T và V hẹn gặp nhau tại khu vực đường T C thuộc phường P, thành phố Bắc Kạn. Khi gặp nhau, V đưa cho T số tiền 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng). T cầm tiền và đưa cho V 01 (một) túi nilon bên trong chứa nhiều viên ma túy hồng phiến (Methamphetamine) và 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong chứa ma túy (Heroine). Sau đó T đi đâu không rõ, còn V cầm số ma túy mua được đem về nhà chia ra cất giấu nhiều nơi trong nhà của V với mục đích để sử dụng dần. Đến sáng ngày 30/12/2021, V cầm theo 02 (hai) gói ma túy rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 97B1- 461.xx đi uống thuốc Methadone tại Cơ sở điều trị Methadone thành phố Bắc Kạn. Khi đi đến đoạn đường thuộc tổ X, phường N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn thì bị tổ công tác Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. V khai nhận toàn bộ số ma túy của V bị thu giữ trong quá trình bắt quả tang và số ma túy thu giữ trong quá trình khám xét tại phòng ngủ của V đều là số ma túy mà V đã mua với người đàn ông tên T vào ngày 27/12/2021. V mua toàn bộ số ma túy trên với mục đích để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích khác.

Tại bản Kết luận giám định số 21/KTHS-MT ngày 07/01/2022 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận:

- Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột có trong phong bì ký hiệu H1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,30g (không phẩy ba không gam).

- Mẫu chất bột màu trắng lẫn màu hồng có trong phong bì ký hiệu H2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine và Methamphetamine, có khối lượng là 0,83g (không phẩy tám ba gam).

- 53 (năm mươi ba) viên nén hình tròn màu hồng, trên một mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY có trong phong bì ký hiệu H3 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 4,98g (bốn phẩy chín tám gam).

- Không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp trong mẫu viên nén hình tròn màu xanh, trên một mặt có ký hiệu Y1, một mặt có ký hiệu A có trong phong bì ký hiệu H4 gửi giám định.

- 08 (tám) viên nén hình tròn màu hồng, trên một mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY có trong phong bì ký hiệu H5 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,72g (không phẩy bảy hai gam).

- 33 (ba mươi ba) viên nén hình tròn màu hồng, trên một mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY có trong phong bì ký hiệu H6 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 3,01g (ba phẩy không một gam).

- 30 (ba mươi) viên nén hình tròn màu hồng, trên một mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY có trong phong bì ký hiệu H7 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 2,69g (hai phẩy sáu chín gam).

- Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột có trong phong bì ký hiệu H8 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 14,28g (mười bốn phẩy hai tám gam).

- Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột có trong phong bì ký hiệu H9 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 3,46g (ba phẩy bốn sáu gam). Sau giám định mẫu chất còn lại cùng phong bì bao gói cũ niêm phong vào phong bì T21 hoàn lại cơ quan trưng cầu.

Tổng khối lượng ma túy (Heroine và Methamphetamine) Đinh T.V tàng trữ là 30,27g (ba mươi phẩy hai bảy gam).

Với các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 26/CT-VKSNDTP, ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Đinh T.V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm h khoản 3 Điều 249/BLHS.

Điều luật có nội dung:

1, Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 01 năm đến 05 năm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

…..

b) Heroine,…, Methamphetamine…có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

…..

h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng….” Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh T.V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38/BLHS, xử phạt bị cáo Đinh T.V từ 11 năm đến 12 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 30/12/2021.

Hình phạt bổ sung: Đề nghị phạt tiền từ 07 triệu đồng đến 10 triệu đồng.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ký hiệu T21 và H10 còn nguyên dấu niêm phong; 02 xác sim điện thoại di động.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, có số IMEI1: 863271056390175 và số IMEI2:

863271056390167 là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội.

- Tạm giữ của bị cáo 01 thẻ ATM của Ngân hàng Agribank số 97040530560247xx trong thẻ có số dư 39.972.500đ để đảm bảo việc thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng, 01 cân điện tử màu đen đã qua sử dụng, 01 Căn cước công dân, 01 Giấy phép lái xe, 01 Thẻ uống thuốc Methadone đều mang tên Đinh T.V.

- Trả lại cho ông Đinh Ngọc N số tiền 30.950.000đ (Ba mươi triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng) Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136/BLTTHS và Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Quá trình tranh luận bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập:

Các hành vi, quyết định tố tụng và các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 30/12/2021, Đinh T.V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của V hai loại ma túy gồm Heroine và Methamphetamine có tổng khối lượng 30,27g (Ba mươi phẩy hai bảy gam) với mục đích để bản thân sử dụng, không nhằm mục đích khác. Nên hành vi của Đinh T.V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249/BLHS.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đinh T.V đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tổng hợp các chứng cứ lại, đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Đinh T.V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã có 02 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục phạm tội, vì vậy cần phải có một mức án nghiêm khắc mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội; bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng là “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS; được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Mặt khác bị cáo có bố, mẹ đẻ là ông Đinh Viết T và bà Trần Thị D được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba. Bởi vậy khi lượng hình được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51/BLHS.

[4] Hình phạt bổ sung: Xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: - Tịch thu tiêu hủy những vật không có giá trị sử dụng gồm: 02 phong bì ký hiệu T21 và H10 còn nguyên dấu niêm phong; 02 xác sim điện thoại di động.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, có số IMEI1: 863271056390175 và số IMEI2:

863271056390167 là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội.

- Trả lại cho bị cáo 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng, 01 cân điện tử màu đen đã qua sử dụng, 01 Căn cước công dân, 01 Giấy phép lái xe, 01 Thẻ uống thuốc Methadone đều mang tên Đinh T.V.

- Tạm giữ của bị cáo 01 thẻ ATM của Ngân hàng Agribank, trong thẻ có số tiền 39.972.500đ (Ba mươi chín triệu, chín trăm bảy mươi hai nghìn, năm trăm đồng) để đảm bảo thi hành án.

- Đối với số tiền 30.950.000đ (Ba mươi triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng) tạm giữ khi khám xét tại nhà Đinh T.V, qua điều tra xác định đây là số tiền của ông Đinh Ngọc N (là cháu của bị cáo Đinh T.V) gửi nhờ bị cáo V, nay ông N đề nghị xin lại số tiền trên. Xét thấy đề nghị của ông Nam là có cơ sở, vì vậy cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn).

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu trắng xám, biển kiểm soát 97B1 - 461.xx đã qua sử dụng, qua điều tra xác định là của ông Đinh Ngọc N. Ngày 30/12/2021, ông N cho V mượn xe và không biết V có mang theo ma túy. Do đó Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn đã trả lại xe và đăng ký xe cho ông N là có căn cứ, đúng quy định.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với người đàn ông tên T đã bán ma túy cho bị cáo Đinh T.V, tuy nhiên bị cáo không cung cấp được họ tên, địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh lịch sử liên lạc hai số thuê bao của Đinh T.V là 0357.701.8xx và 0837.093.8xx, nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời của Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel), nên chưa có căn cứ để điều tra xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1, Tuyên bố: Bị cáo Đinh T.V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38/ Bộ luật Hình sự 2015.

+ Xử phạt: Bị cáo Đinh T.V 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 30/12/2021.

+ Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Đinh T.V 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

2,Về vật chứng:

- Áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS.

+ Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ký hiệu T21 và H10 còn nguyên dấu niêm phong; 02 xác sim điện thoại di động.

+ Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, có số IMEI1: 863271056390175 và số IMEI2:

863271056390167 là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội.

+ Tạm giữ của bị cáo 01 thẻ ATM của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) Chi nhánh tỉnh Bắc Kạn số 97040530560247xx, số tài khoản 86002051723xx có số dư tính đến thời điểm ngày 17/3/2022 là 39.972.500đ (Ba mươi chín triệu, chín trăm bảy mươi hai nghìn, năm trăm đồng) để đảm bảo thi hành án.

+ Trả lại cho bị cáo 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng; 01 cân điện tử màu đen đã qua sử dụng; 01 Căn cước công dân số 0060660000xx do Cục cảnh sát QLHC về TTXH cấp ngày 05/4/2021; 01 Giấy phép lái xe hạng A1 số 0602160009xx do Sở GTVT Bắc Kạn cấp ngày 01/11/2021; 01 Thẻ uống thuốc Methadone số 20701003xx đều mang tên Đinh T.V.

+ Trả lại cho ông Đinh Ngọc N, sinh năm 1986, trú tại tổ Y, phường Đ, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn số tiền 30.950.000đ (Ba mươi triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng).

(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn ngày 07/6/2022).

3, Về án phí:

- Áp dụng Điều 136/Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

+ Buộc bị cáo Đinh T.V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4, Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 47/2022/HS-ST

Số hiệu:47/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;