Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 44/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 22/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 08 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 09 năm 2021, đối với bị cáo:

Đậu Minh Th, sinh ngày 26 tháng 6 năm 1979, tại thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: tổ dân phố M, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: lớp 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đậu Xuân B, sinh năm 1947 (Đã chết) và bà Mai Thị Hồng Ph, sinh năm 1949; vợ: Lương Thị Thu Th, sinh năm 1990; con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 23/5/1997, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 30 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”;

Ngày 19/11/1997, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xử phạt 05 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”;

Ngày 26/08/1999, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xử phạt 24 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Gây rối trật tự công cộng”;

Ngày 21/12/2000, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xử phạt 24 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”;

Ngày 28/04/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xử phạt 36 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”;

Ngày 04/05/2007, bị Công an thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

Ngày 22/4/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xử phạt 08 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 09/12/2013 thi hành xong án phạt tù trở về sinh sống tại địa phương cho đến ngày gây án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tam giam từ ngày 16/04/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà theo Lệnh trích xuất của Tòa án.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: chị Lương Thị Thu Th, sinh năm 1990; nơi cư trú: Tiểu khu 13, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ, ngày 13 tháng 04 năm 2021, Đậu Minh Th đón xe khách đi ra tỉnh Nghệ An để chơi và tìm mua ma túy về sử dụng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, xe ra đến nơi thì Th đi đến khu vực cầu Bến Thủy, thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An tình cờ gặp một người đàn ông không rõ tên, địa chỉ cụ thể, Th bắt chuyện làm quen và hỏi mua được 04 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa ma túy Heroine với giá 1.500.000 đồng. Sau đó, Th đi về nhà của mình và cất giấu số ma túy mua được tại phòng ngủ. Đến khoảng 16 giờ, ngày 16 tháng 4 năm 2021, Th mang số ma túy trên cất giấu vào trong áo khoác bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô BKS 73K1 - 215.59 đi đến khu vực đập tràn thuộc phường Quảng Phong, thị xã Ba Đồn để sử dụng, khi đi đến đoạn đường bê tông thuộc khu phố 5, phường Ba Đồn, thị xã Ba Đồn thì bị lực lượng Công an thị xã Ba Đồn phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình bắt quả tang, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã thu giữ trong tay áo khoác của Đậu Minh Th 04 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, màu đen, BKS 73K1 - 215.59. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của chị Lương Thị Thu Th (vợ của Thủy) nên Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại tài sản cho chị Th.

Ngày 19/4/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 91/CSĐT để trưng cầu giám định 01 bì thư đã được niêm phong chứa 04 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất nén màu trắng (mẫu ký hiệu A).

Tại bản kết luận giám định số 618/GĐ-PC 09 ngày 23 tháng 4 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 04 (bốn) gói giấy màu trắng bên trong đều chứa chất màu trắng thu giữ trên người Đậu Minh Th lúc bị bắt quả tang là “Chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,457g (không phẩy bốn trăm năm mươi bảy gam). Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ”.

Trong vụ án này, có đối tượng người đàn ông đã bán ma túy cho Th tại khu vực cầu Bến Thủy, thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, do không xác định được lai lịch, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp tục lập hồ sơ theo dõi, khi nào có kết quả thì xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 41/CT - VKSBĐ ngày 12 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố bị cáo Đậu Minh Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Bản cáo trạng, đã xem xét, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Đậu Minh Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Đậu Minh Th từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 16/4/2021.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy 04 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất nén màu trắng và số ma túy còn lại sau khi giám định.

Tuyên bị cáo phải chịu án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và nhất trí với toàn bộ nội dung Bản cáo trạng và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố đối với bị cáo, không tranh luận gì.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, hứa sẽ không phạm tội nữa; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình, cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thự hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận, là người có nhu cầu sử dụng ma túy, nên vào ngày 13 tháng 4 năm 2021, bị cáo đón xe khách đi ra tỉnh Nghệ An tìm mua ma túy về sử dụng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, tại khu vực cầu Bến Thủy, thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, bị cáo gặp một người đàn ông và hỏi mua được 04 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa ma túy Heroine với giá 1.500.000 đồng. Sau đó, bị cáo đi về nhà của mình và cất giấu số ma túy mua được tại phòng ngủ. Đến khoảng 16 giờ, ngày 16 tháng 4 năm 2021, bị cáo mang số ma túy trên cất giấu vào trong áo khoác bên phải đang mặc rồi một mình điều khiển xe mô tô BKS 73K1 - 215.59 đi đến khu vực đập tràn thuộc phường Quảng Phong, thị xã Ba Đồn để sử dụng, khi đi đến đoạn đường bê tông thuộc khu phố 5, phường Ba Đồn, thị xã Ba Đồn thì bị lực lượng Công an thị xã Ba Đồn phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp về thời gian, không gian, địa điểm và hiện trường nơi xảy ra vụ án; phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án và được tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo Đậu Minh Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, đúng như tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố, quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của bị cáo.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thấy: Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức và biết được ma túy loại Heroine là loại độc dược gây nghiện nguy hiểm, là mặt hàng được Nhà nước độc quyền quản lý để nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng ma túy, bảo vệ sức khỏe của người dân và ngăn ngừa các tội phạm về ma túy, mọi hành vi cất giữ ma túy trái với quy định của pháp luật đều bị pháp luật nghiêm cấm và bị coi là tội phạm. Do coi thường, bất chấp pháp luật nên bị cáo đã cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, nhằm thỏa mản nhu cầu của bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Ngoài ra còn trực tiếp đe doạ nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển của bản thân, gây thiệt hại về kinh tế cho gia đình, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần có một hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện để nhằm đấu tranh, ngăn chặn triệt để tệ nạn ma tuý trên địa bàn.

[4] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có nhân thân xấu, đã bị Tòa án xử phạt nhiều lần, bị Cơ quan chức năng xử phạt hành chính.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức được hành vi sai trái của mình, thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; mẹ đẻ của bị cáo là bà Mai Thị Hồng Ph là người có công với nước, được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe; như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không đảm nhiệm chức vụ, hành nghề gì, buôn bán nhỏ lẻ, thu nhập không ổn định, không có khả năng thi hành án; cần chấp nhận ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên Tòa để miễn chấp hành hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý đồ vật, vật chứng:

Xét 01 mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, màu đen, BKS 73K1 - 215.59; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định chiếc xe mô tô trên đứng tên bị cáo nhưng tại thời điểm mua xe chị Lương Thị Thu Th chưa có Giấy phép lái xe để mua xe và số tiền mua xe do chị Th tự mượn và tự chịu trách nhiệm trả nợ; việc Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại tài sản cho chị Th là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật; tại phiên tòa không ai có ý kiến, yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với 04 gói giấy màu trắng không còn giá trị sử dụng và số ma tuý còn lại sau khi giám định (0,36g) được thu giữ trong vụ án là chất cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Liên quan trong vụ án có đối tượng người đàn ông đã bán ma túy cho Th tại khu vực cầu Bến Thủy, thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn không xác định được lai lịch, địa chỉ nên chưa có căn cứ xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn sẽ tiếp tục điều tra, xác minh để xử lý sau.

[9] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án”; buộc bị cáo Đậu Minh Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các khoản 1, 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào các điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 329; các khoản 1, 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án”.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đậu Minh Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đậu Minh Th 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 16/4/2021.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Đậu Minh Th với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/10/2021) để đảm bảo thi hành án, theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đậu Minh Th.

4. Về xử lý vật chứng: Xử tịch thu tiêu hủy 04 gói giấy màu trắng và số ma tuý còn lại sau khi giám định (Các vật chứng có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Ba Đồn và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn vào ngày 12/8/2021).

5. Về án phí: Xử buộc bị cáo Đậu Minh Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 22/10/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 44/2021/HS-ST

Số hiệu:44/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;